Quay lại Dân trí
Dân sinh
  1. Diễn đàn Dân sinh

Chế độ dinh dưỡng thời dịch bệnh Covid - 19

 
Chế độ dinh dưỡng nâng cao sức đề kháng và miễn dịch phòng virus Corona như sau:
 
Ăn đa dạng, phối hợp, thay đổi thường xuyên các loại thực phẩm, từ 15-20 loại thực phẩm hàng ngày. Khẩu phần ăn hàng ngày nên có sự phối hợp ở tỷ lệ cân đối giữa giữa nguồn chất đạm động vật và thực vật (thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua, hải sản, đậu, đỗ...). Ngoài ra, nên ăn cả dầu thực vật và mỡ động vật ở tỷ lệ cân đối trong khẩu phần. Tăng cường ăn vừng lạc, đậu đỗ, rau xanh và hoa quả chín. Ăn đủ nhu cầu cơ thể, cần phân chia hợp lý các bữa ăn trong ngày. Chế độ ăn đảm bảo đủ các nhóm thực phẩm: Năng lượng từ ngũ cốc chỉ nên chiếm 55 - 67% tổng năng lượng khẩu phần, phần còn lại do các chất béo cung cấp chiếm 20 - 25% và 13 - 20% là từ chất đạm. 
 
Rau và quả chín: Rau quả là nguồn cung cấp các vitamin, khoáng chất và chất xơ. Vitamin và chất khoáng có vai trò rất quan trọng, nếu thiếu sẽ làm giảm khả năng miễn dịch chống lại các virus, vi khuẩn gây bệnh. Vitamin và khoáng chất giúp nâng cao sức đề kháng và miễn dịch, đó là các vitamin: vitamin A, vitamin C, vitamin D, vitamin E và chất khoáng như sắt, kẽm… 
 

Một chế độ dinh dưỡng cân bằng giúp tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể. Ảnh KT
 
Vai trò của một số vitamin và khoáng chất để nâng cao sức đề kháng và miễn dịch:
 
Vitamin A: Có vai trò rõ rệt cả với miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn ở trẻ em mà nguyên nhân do thiếu vitamin A rất cao. Thiếu vitamin A làm giảm sức đề kháng - miễn dịch tăng nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng và tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Thiếu vitamin A các biểu mô quá sản, sừng hóa, các tuyến ngoại tiết giảm bài tiết, khả năng ngăn cản sự xâm nhập của vi khuẩn giảm đi. Những nghiên cứu gần đây đã khẳng định rằng, biện pháp bổ sung vitamin A có thể làm giảm 23% tử vong ở trẻ em. Vitamin A có nhiều trong gấc, rau ngót, rau dền cơm, gan gà, gan lợn, gan bò...
 
Vitamin E: Vitamin E làm tăng tính miễn dịch bằng cách bảo vệ tế bào khỏi bị tổn thương, do đó tăng sức đề kháng của cơ thể với các bệnh nhiễm khuẩn mạnh hơn, làm chậm tiến triển bệnh sa sút trí tuệ (Alzheimer), bảo vệ vitamin A và chất béo của màng tế bào khỏi bị o xy hóa, tham gia vào chuyển hóa tế bào. Vitamin E bảo vệ các chất béo trong não khỏi các gốc tự do, đặc biệt là các chất béo omega-3 DHA và EPA, trong đó tập trung ở tế bào thần kinh. Vitamin E có nhiều trong các thực phẩm nguồn gốc tự nhiên: đậu tương, giá đỗ, vừng, lạc, mầm lúa mạch, dầu hướng dương, dầu ô-liu và các loại rau có lá màu xanh đậm. 
 
Vitamin C: Vai trò tăng cường miễn dịch, cần thiết cho các tế bào miễn dịch T và bạch cầu, từ đó làm tăng chức năng của hệ miễn dịch. Thiếu vitamin C, sự nhạy cảm với các bệnh nhiễm khuẩn tăng lên, tính thấm mao mạch tăng, mạch dễ vỡ, da khô ráp. Nếu ăn đủ vitamin C, các glubulin miễn dịch IgA và IgM tăng, hoạt tính của bạch cầu tăng, kích thích chuyển dạng các lymphô bào và giúp tạo thành các bổ thể. Hơn 90% lượng vitamin C có trong khẩu phần ăn được cung cấp từ các loại trái cây và rau củ. Các loại rau giàu vitamin C: rau ngót, rau mùi tàu, rau dền, rau đay, rau mồng tơi, hành hoa; các loại quả bưởi, đủ đủ, quýt, cam, chanh…
 
Vitamin nhóm B: Trong các vitamin nhóm B, vai trò của các folat và pyridoxin đáng chú ý hơn cả. Thiếu folat làm chậm sự tổng hợp của các tế bào tham gia vào các cơ chế miễn dịch. Tương tự như thiếu sắt, miễn dịch dịch thể ít bị ảnh hưởng hơn miễn dịch qua trung gian tế bào. Trên thực tế ở trẻ em nhất là phụ nữ có thai, thiếu folat thường đi kèm thiếu sắt là hai yếu tố gây thiếu máu dinh dưỡng. Thiếu pyridoxin (vitamin B6) làm chậm các chức năng miễm dịch, cả dịch thể và trung gian tế bào. Các vitamin nhóm B có nhiều trong cám gạo, ngũ cốc, các loại hạt đậu, mè, mầm lúa mì, tim, gan.
 

Chế độ dinh dưỡng lành mạnh không thể thiếu rau củ và trái cây. Ảnh KT

Vai trò của một số chất khoáng và miễn dịch
 
Rất nhiều chất khoáng và vi khoáng tham gia vào miễn dịch, trong đó vai trò của sắt, kẽm được nghiên cứu nhiều hơn cả.
 
Sắt: Sắt cần thiết cho tổng hợp AND, nghĩa là nó cần thiết cho quá trình phân bào. Ngoài ra, sắt còn tham gia vào nhiều enzym can thiệp vào quá trình phân giải bên trong tế bào. Thiếu sắt, nhiễm khuẩn tăng. Sắt gây ảnh hưởng đến miễn dịch qua trung gian tế bào hơn là miễn dịch dịch thể. Sắt có nhiều trong mộc nhĩ, nấm hương, rau dền đỏ, đậu tương, tiết bò, bầu dục lợn, lòng đỏ trứng vịt, cua đồng...
 
Kẽm: Kẽm giúp tăng cường miễn dịch, giúp làm vết thương mau lành và giúp duy trì vị giác và khướu giác. Kẽm tham gia vào hàng trăm enzym chuyển hóa trong cơ thể, vì vậy, khi thiếu kẽm, trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu hóa do giảm sức đề kháng. Ngoài ra, khi thiếu kẽm trẻ thường có biểu hiện biếng ăn, chậm lớn, chậm phát triển chiều cao. Các thức ăn giàu kẽm là thịt, cá, tôm, sò, sữa, trứng, ngao, hàu...
 
Uống đủ nước theo nhu cầu từ 2,0-2,5 lít nước/người. Có thể dùng nước chanh, nước cam, nước sả, nước gừng… tùy theo cơ thể mỗi người. Giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ, thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, nhỏ mắt bằng nước muối sinh lý, vệ sinh đường hô hấp trên bằng nước súc miệng hoặc nước muối sinh lý. Khi hắt hơi, sổ mũi, ho cần che miệng hoặc dùng khăn giấy sau đó vứt vào sọt rác, đồng thời rửa và làm khô tay. Thường xuyên đeo khẩu trang đúng kỹ thuật khi ra ngoài, đến chỗ đông người, tiếp xúc với người nhiễm bệnh. Nhà cửa gọn gàng, thoáng mát, sạch sẽ, đặc biệt có ánh nắng chiếu vào có tác dụng tiêu diệt virus.
 
 

ThS.BS Nguyễn Văn Tiến (Trung tâm Giáo dục Truyền thông dinh dưỡng - Viện Dinh dưỡng)/GĐTE