Đại tá Hoàng Anh Tuyên khái quát 4 xu hướng mới trong nhận thức và chính sách kiểm soát ma túy trên thế giới hiện nay gồm: (1) Phi hình sự hóa; (2) kKhông áp dụng án phạt tù đối với một hành vi cụ thể như không áp dụng hình phạt tù có giam giữ đối với hành vi tàng trữ hoặc sử dụng trái phép ma túy; (3) yY tế hóa trong xử lý việc sử dụng và lệ thuộc vào ma túy; (4) hHợp pháp hóa: Ccác chất ma túy và hành vi liên quan đến ma túy được nhà nước quản lý tương tự như các chất gây nghiện khác như đồ uống có cồn, thuốc lá. Tuy nhiên, từ góc độ pháp lý, mọi hành vi hợp pháp hóa các hoạt động liên quan đến ma túy trái phép đều trái với các công ước kiểm soát ma túy quốc tế hiện hành. Tại các công ước quốc tế về kiểm soát ma túy đã quy định rõ: Ccác chất ma túy chỉ được phép sử dụng vào mục đích y tế và nghiên cứu khoa học, mọi hành vi sử dụng ngoài hai mục đích này đều được coi là bất hợp pháp. Đối với hành vi sử dụng ma túy thuần túy, Công ước 1988 đã khuyến nghị có thể hình sự hóa và cho phép các quốc gia có quyền rộng rãi hơn trong việc quyết định áp dụng chế tài phù hợp.
Trước những xu hướng khác biệt nêu trên và tình hình ma túy diễn biến ngày càng phức tạp, Liên hợp quốc đã tổ chức phiên họp đặc biệt về vấn đề ma túy (UNGASS) từ ngày 17 - 21/4/2016 tại New York. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển mới trong chính sách phòng, chống ma túy toàn cầu. Văn kiện Hội nghị được thông qua mang tên “Cam kết chung nhằm đấu tranh và ứng phó một cách hiệu quả đối với vấn đề ma túy thế giới” là sự thỏa hiệp giữa những quốc gia ủng hộ chính sách truyền thống và các quốc gia theo đuổi các xu hướng mới. Nội dung văn kiện bao gồm toàn diện các khía cạnh của công tác kiểm soát ma túy. Trong đó: Phần lớn cho rằng chính sách kiểm soát ma túy hiện nay được thể hiện trong 3 công ước Liên hợp quốc vẫn phát huy tác dụng, góp phần kiềm chế, không để tệ nạn ma túy phức tạp hơn. Số khác, nhất là đại diện các nước Nam Mỹ, các tổ chức phi chính phủ cho rằng, việc thực hiện chính sách hiện tại không thành công, không đạt được các mục tiêu đề ra và không đáp ứng được đòi hỏi với những diễn biến mới của tình hình ma túy.
Phần lớn các nước đều nhấn mạnh vào nội dung phải có chính sách phòng, chống ma túy toàn diện, cân bằng cả giảm cung và giảm cầu, vừa đấu tranh chống tội phạm vừa phòng ngừa. Văn kiện thể hiện: "Chúng tôi nhận thấy rằng, những thách thức mới và liên tục về vấn đề ma túy cần được giải quyết phù hợp với 3 cCông ước kiểm soát ma túy quốc tế, các cCông ước này cho phép các quốc gia có sự linh hoạt trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách kiểm soát ma tuý theo các ưu tiên và nhu cầu riêng của mỗi nước, trên nguyên tắc cùng nhau chia sẻ trách nhiệm chung và pháp luật quốc tế”. Với nội dung này, Liên hHợp qQuốc, một mặt khẳng định hiệu lực của thể chế kiểm soát ma túy hiện hành, đồng thời có tính đến tính chất linh hoạt cho phép các quốc gia có thể xây dựng và thực hiện chính sách riêng phù hợp.
Trong một hội thi tuyên truyền phòng, chống ma túy. Ảnh minh họa
Vấn đề “nghiện và điều trị nghiện” gây nhiều tranh luận do lập trường và chính sách rất khác biệt. Các nước châu Á và nhiều nước khác ứng xử với vấn đề này hoàn toàn dựa trên nguyên tắc truyền thống, không nhân nhượng với ma túy, cho hành vi sử dụng ma tuý là phạm tội, phải xử lý nghiêm khắc bằng phạt tù hoặc cai nghiện bắt buộc. Một số nước khác, điển hình ở châu Âu, hoàn toàn coi đây là vấn đề y tế xã hội, phản đối việc áp dụng các chế tài, việc điều trị phải tự nguyện và được thực hiện tại cộng đồng. Trong văn kiện của hội nghị, dường như xu hướng mới đang chiếm ưu thế:
Văn kiện công nhận “việc lệ thuộc vào ma túy như một tình trạng rối loạn sức khỏe phức tạp, đa yếu tố, mãn tính và dễ tái phát, với các nguyên nhân và hậu quả xã hội” -– cách tiếp cận hoàn toàn từ góc độ y tế. Rằng việc lệ thuộc này có thể phòng ngừa và điều trị được “thông qua các chương trình điều trị, chăm sóc và phục hồi hiệu quả dựa trên cơ sở khoa học, bao gồm các chương trình tại cộng đồng, chăm sóc sau điều trị và tái hòa nhập cộng đồng”. Văn kiện “khuyến khích các cá nhân tình nguyện tham gia các chương trình điều trị rối loạn do sử dụng ma túy” và yêu cầu các nước “xây dựng và triển khai các chương trình và chiến dịch tiếp cận cộng đồng đối với người sử dụng ma túy, giảm thái độ kỳ thị”.
Đáng chú ý là, văn kiện khuyến khích các quốc gia “xem xét các biện pháp hiệu quả nhằm giảm tối thiểu các hệ quả tiêu cực đối với xã hội và y tế cộng đồng từ việc lạm dụng ma túy, bao gồm các chương trình điều trị từ dược phẩm, chương trình trang bị bơm kim tiêm, liệu pháp kháng vi-rútrus và các biện pháp can thiệp có liên quan khác”, và “xem xét việc bảo đảm tiếp cận các biện pháp can thiệp nêu trên vào trong nhà tù và các cơ chế tạm giam khác”. Đây là nội dung mới, chưa từng được phản ánh trong các văn kiện chính thức trước đây của Liên hHợp qQuốc.
Những tranh luận tại hội nghị như trên phản ánh tính chất phức tạp của vấn đề ma túy, và thể hiện những bất đồng trong chính sách kiểm soát ma túy toàn cầu hiện nay. Qua Hội nghị UNGASS và nội dung văn kiện chung vừa được thông qua, có thể thấy, chính sách phòng, chống ma túy toàn cầu vẫn tiếp tục dựa trên nền tảng của 3 cCông ước quốc tế về kiểm soát ma túy. Tuy nhiên, xu hướng ủng hộ các tiếp cận tự do đang có sự ủng hộ ngày càng tăng.
“Nếu so sánh với nội dung văn kiện, có thể nhận thấy, về cơ bản, chính sách phòng, chống ma túy của Việt Nam đã tiếp thu có chọn lọc những xu hướng mới. Trong thời gian tới, có thể chứng kiến sự đa dạng hơn của chính sách kiểm soát ma túy các nước, khi họ tìm tòi con đường đi phù hợp với tình hình cụ thể của mình. Trong sự đa đạng ấy, chính sách phòng, chống ma túy Việt Nam cũng cần dựa trên mẫu số chung là các công ước quốc tế hiện vẫn đang là dòng chảy chính. Việc vận dụng các xu hướng mới cần được nghiên cứu thận trọng, dựa trên điều kiện cụ thể ở Việt Nam”, đại tá Hoàng Anh Tuyên cho hay.
“Chính sách phòng, chống ma túy của Việt Nam đã tiếp thu có chọn lọc những xu hướng mới. Trong thời gian tới, có thể chứng kiến sự đa dạng hơn của chính sách kiểm soát ma túy các nước, khi họ tìm tòi con đường đi phù hợp với tình hình cụ thể của mình. Việc vận dụng các xu hướng mới cần được nghiên cứu thận trọng, dựa trên điều kiện cụ thể ở Việt Nam”.
Kim Khánh/Tạp chí Gia đình và Trẻ em