Quay lại Dân trí
Dân sinh
  1. Diễn đàn Dân sinh

Gần 2.000 trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài

Theo thống kê của Cục Con nuôi (Bộ Tư pháp), trong giai đoạn 2011-2015, trên toàn quốc có 14.539 trẻ em đã được giải quyết cho làm con nuôi, trong đó 12.768 trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi trong nước, 1.771 trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài (CNNN).

 

Giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài chỉ chiếm hơn 12%

Như vậy, các trường hợp giải quyết nuôi CNNN chỉ chiếm hơn 12%, trong khi các trường hợp giải quyết nuôi con nuôi trong nước chiếm gần 88%. Riêng năm 2016, tính đến tháng 7 có 1.026 trẻ em được đăng ký nuôi con nuôi trong nước, còn tính đến ngày 31/10/2016 có 433 trẻ em được giải quyết làm CNNN. 

Ngoài ra, thực hiện kế hoạch đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế, cả nước có 3.567 trường hợp đã đăng ký, chiếm 51% tổng số các trường hợp đủ điều kiện đăng ký. Đồng thời, toàn quốc cũng có 46 trường hợp nuôi con nuôi ở khu vực biên giới, riêng Hà Giang và Đồng Tháp đã chiếm tổng cộng 28 trường hợp.

 

Riêng năm 2016, tính đến ngày 31/10/2016 có 433 trẻ em được giải quyết làm con nuôi nước ngoài

 

Khảo sát 254 người dân nhận con nuôi trong nước cho thấy, có 75,6% số người nhận con nuôi ở độ tuổi từ 30- 50 tuổi và có điều kiện kinh tế ở mức độ bình thường; 41,3% người nhận con nuôi có trình độ học vấn thấp; 65% người nhận trẻ em làm con nuôi ở trên chính địa bàn nơi mình sinh sống.

Lý do nhận con nuôi chủ yếu là vì không có con cái (chiếm 65%), muốn giúp đỡ người thân trong gia đình gặp phải khó khăn (chiếm 15,4%) và muốn chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi (chiếm 19,6%). Người nhận con nuôi đa số có mối quan hệ quen biết hoặc quan hệ họ hàng với trẻ em được nhận làm con nuôi. Đặc biệt, phần lớn người nhận con nuôi trong nước nhận trẻ em có tình trạng sức khỏe bình thường, sức khỏe tốt làm con nuôi, chưa kể còn có sự lựa chọn giới tính của trẻ.

Thực tế này cũng được Nữ tu Mary Nguyễn Thị Thanh Mai – Giám đốc Cơ sở bảo trợ xã hội Mái ấm tình thương Lagi chia sẻ. Theo bà Mai, nhiều gia đình trong nước đến Cơ sở tìm kiếm con nuôi, nhưng hầu hết họ chỉ thích chọn lựa các cháu sơ sinh, các cháu nhỏ tuổi, trông thông minh, lanh lợi, xinh đẹp để đáp ứng nhu cầu gia đình hiếm muộn không có con. Tuy nhiên, bà Mai khẳng định, Cơ sở luôn đặt ưu tiên hàng đầu cho người mẹ ruột có cơ hội nhận lại trẻ trong giai đoạn trẻ từ 0- 5 tuổi.

Trong khi đó, các gia đình nước ngoài thường có điều kiện kinh tế ổn định, chỗ ở phù hợp với việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ nhỏ. Người nước ngoài cũng rất sẵn sàng nhận trẻ em có nhu cầu chăm sóc đặc biệt làm con nuôi và không phân biệt giới tính của trẻ. Tổng hợp hơn 3 nghìn báo cáo theo dõi tình hình phát triển của trẻ em được giải quyết cho làm CNNN cho biết, trẻ em có tình trạng sức khỏe đặc biệt mà các gia đình nước ngoài nhận nuôi được tích cực chữa trị, phẫu thuật và điều trị kịp thời, có trẻ em còn được cấy ghép nội tạng ở nước ngoài, tính mạng được bảo toàn.

Giải quyết nuôi con nuôi trong nước và quốc tế đã đi vào nề nếp

Cục trưởng Cục Con nuôi Nguyễn Thị Hảo nhận xét: Trong giai đoạn 2012-2016, công tác giải quyết nuôi con nuôi trong nước và quốc tế nhìn chung đã đi vào nề nếp, dần đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn. Qua đó nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tìm được gia đình thay thế trong nước và nước ngoài, góp phần vào công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em.

Tuy nhiên, ở Trung ương còn một số điểm hạn chế như ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi chưa đồng bộ; tiến độ thực hiện các phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính còn chậm. Tại địa phương, Sở Tư pháp và Sở LĐ-TB&XH chưa chủ động rà soát, đánh giá điều kiện của các cơ sở trợ giúp xã hội (TGXH) ngoài công lập để tham mưu cho UBND cấp tỉnh mở rộng diện các cơ sở TGXH ngoài công lập tham gia giải quyết việc nuôi CNNN, dẫn đến tình trạng còn một số lượng lớn cơ sở TGXH chưa được chỉ định tham gia giải quyết nuôi CNNN. 

Bàn về tình trạng này, Trưởng phòng Hộ tịch, Quốc tịch (Sở Tư pháp TP. HCM) Nguyễn Triều Lưu phản ánh, tại TP. HCM, hơn nửa trẻ em được nuôi trong cơ sở tư nhân, trong khi đó theo quy định của Luật Nuôi con nuôi các cơ sở nuôi tư nhân phải đủ điều kiện và được sự chấp thuận của UBND tỉnh, thành phố mới được cho nhận nuôi CNNN. “Vấn đề là phải đặt quyền lợi của trẻ em khó khăn, bệnh tật có nhu cầu được làm CNNN lên hàng đầu, chứ không phải nặng về hình thức, điều kiện của các cơ sở nuôi trẻ em”, ông Lưu nói.

Cùng với đó, ông Nguyễn Khánh Ngọc, Thứ trưởng Bộ Tư pháp nhận định: “Việc thực thi chế định nuôi con nuôi ở Việt Nam vẫn không thể tránh được những tồn tại, bất cập, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu hợp tác quốc tế và giải quyết các vấn đề nuôi con nuôi của Việt Nam là rất lớn. Điều này đặt ra Việt Nam cần thiết phải có đánh giá toàn diện thực trạng công tác giải quyết nuôi con nuôi thời gian qua, những kết quả đạt được, hạn chế yếu kém, để tìm ra nguyên nhân, đưa ra giải pháp khả thi nhằm nâng cao, chất lượng hiệu quả công tác giải quyết nuôi con nuôi”.

Liên quan đến công tác phối hợp giải quyết con nuôi, ngày 11/3/2016 vừa qua, Bộ LĐ-TB&XH và Bộ Tư pháp cũng đã ký kết phối hợp giải quyết con nuôi đối với trẻ em đang được chăm sóc tại các cơ sở TGXH. 

Theo đó, hai Bộ có trách nhiệm hướng dẫn các địa phương, cơ sở TGXH trong việc rà soát và đánh giá năng lực của các cơ sở trên địa bàn tỉnh, thành phố; thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường năng lực cho cơ sở TGXH, không phân biệt cơ sở TGXH công lập và ngoài công lập trong việc giải quyết nuôi con nuôi.

 

Năm 2012, Việt Nam chính thức trở thành thành viên Công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (Công ước La Hay). Công ước được áp dụng trực tiếp nhằm điều chỉnh việc cho, nhận con nuôi quốc tế tại Việt Nam không qua giai đoạn chuyển tiếp. 

Ngay sau khi Công ước La Hay có hiệu lực thi hành, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án triển khai thực hiện Công ước La Hay giai đoạn 2012- 2015 nhằm nâng cao nhận thức về Công ước La Hay và tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về nuôi con nuôi.