Được tin có khách ở Kon Tum đến chơi, từ nhà dưới đi lên, ở tuổi chín mươi hai nhưng những bước đi vẫn chắc khỏe với vóc dáng của một người Tây Nguyên đã trọn đời đi theo cách mạng.
- Bác còn khỏe chứ ạ ? - Tôi hỏi.
- Tôi phải sống để chứng kiến công cuộc đổi mới của đất nước, cuộc sống mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên chứ - Ông rành rọt trả lời.
Ông mời chúng tôi ngồi rồi hỏi “lý lịch” của tôi và nhà báo Lê Văn Thiềng, nguyên Trưởng Ban công tác Hội của Hội Nhà báo Việt Nam cùng đi. Biết chúng tôi làm báo, ông kể chuyện ông đã từng viết báo từ năm 1946.
Hạnh phúc tuổi già của ông bà KSor Ní.
Người đầu tiên ở Tây Nguyên viết báo cách mạng
Chuyện ông kể là thế này: Năm 1946, từ buôn làng Gia Lai, ông được cử ra Hà Nội dự Đại hội Thanh niên các dân tộc Việt Nam. Ra đến thủ đô, ông nghe đài phát thanh của Pháp nói đại ý là: Người dân Tây Kỳ (Tây Nguyên) niềm nở đón tiếp quân Pháp xâm chiếm Tây Kỳ. Ông bảo là mình nghe đài Pháp nói thế thì tức lắm vì sự thật không đúng như vậy. Người dân Tây Nguyên luôn một lòng theo cách mạng, đoàn kết đánh đuổi giặc Pháp, thế mà đài của chúng lại nói ngược lại. Thế là sẵn biết tiếng Pháp, nói và nghe được tiếng Pháp, Kso Ní- chàng trai Tây Nguyên khi ấy mới 22 tuổi đang ở giữa lòng Hà Nội lúc ấy đã viết ngay một bài báo bằng tiếng Pháp và ông gửi cho báo Lơ-Pớp (tiếng Pháp có nghĩa là Nhân dân) phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của đài phát thanh Pháp; cổ vũ, động viên đồng bào Tây Nguyên đánh giặc giữ buôn làng. Khi bài viết của ông được báo Lơ-Pớp đăng, Bác Hồ đã cho gọi ông vào Bắc Bộ Phủ. Ông nói rằng, đó là một buổi chiều lịch sử và mãi mãi theo ông trong cả cuộc đời đi làm cách mạng của mình.
Ông kể rằng, hôm ấy là một buổi chiều cuối thu năm 1946, đồng chí Y Ngông Nick Đam (cố Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội) gặp ông và nói: Em được vào Bắc Bộ Phủ để gặp Hồ Chí Minh. Thế là ông đi theo Y Ngông Nick Đam vào Bắc Bộ Phủ. Khi gặp Bác ở phòng làm việc, ông xúc động quá, cứ phải bám riết lấy Y Ngông. Nhớ lại buổi gặp Bác đầu tiên ấy, ông kể: “Bác ngồi trước mặt chúng tôi, ân cần hỏi thăm sức khoẻ, hỏi thăm gia đình hai chúng tôi. Anh Y Ngông chỉ vào tôi rồi giới thiệu với Bác: “Đây là anh KSor Ní, thanh niên dân tộc Jơ Rai”.
Bác cười, gật đầu. Tôi sững sờ nhìn Bác. Bác gần gũi và thân tình quá, tự nhiên tôi không còn e ngại nữa. Bác hỏi thăm sức khỏe của mọi người ở Nha Dân tộc Trung ương. Đồng chí Y Ngông Nick Đam báo cáo rằng: "Thưa Bác, giặc Pháp đã chiếm mất Tây Kỳ rồi ạ". Bác nói: "Bác biết rồi" và thấy nét mặt của Bác thoáng buồn. Lúc ấy, KSo Ní xen vào: "Thưa Bác, ta có đánh Pháp để giải phóng Tây Kỳ không ạ". Bác đứng dậy cầm tay hai chúng tôi rồi nói: "Phải đánh". Rồi Bác đưa bàn tay lên ý nói là bàn tay có 5 ngón nếu thiếu một ngón thì không còn là một bàn tay.
Cũng như cả nước Việt Nam, Việt Nam độc lập thì Tây Kỳ cũng được hưởng hạnh phúc do nền độc lập của Tổ quốc đem lại.
Nghe Bác Hồ nói vậy, tôi và anh Y Ngông đều rất phấn khởi. Bác khuyên chúng tôi cố gắng học tập, chăm lo giữ gìn sức khoẻ và làm công tác cách mạng tốt hơn. Từ bé học ở Trường của Pháp toàn viết và nói tiếng Pháp, song nghe lời Bác dạy bảo, chỉ sau ba tháng, tôi đã biết đọc, biết viết tiếng phổ thông và được làm việc trong Phòng Văn xã của Nha Dân tộc Trung ương tại Hà Nội. Ngày 15/12/1946, trước lúc Bác Hồ kêu gọi Toàn quốc kháng chiến 4 ngày, tôi được vinh dự kết nạp vào Đảng. Thế là từ một thanh niên trí thức người dân tộc thiểu số, được giác ngộ cách mạng, tôi đã trở thành một đảng viên cộng sản”.
Từ ngày được gặp Bác Hồ, ông luôn tâm niệm phải sống để xứng đáng với niềm tin của Bác đối với đồng bào Tây Nguyên. Khi trở về quê hương Gia Lai, điều đầu tiên ông nói cho bà con biết đó là Bác Hồ và Đảng. Từ đó trở đi, người đảng viên KSor Ní một lòng đi theo cách mạng suốt chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Cách mạng đổi đời người Jơ Rai
Trong câu chuyện với chúng tôi, ông vẫn nhớ đến từng chi tiết cuộc đời của mình và người dân tộc Jơ Rai ở Tây Nguyên quê ông trong những tháng năm gian khổ nhưng một lòng theo cách mạng. Ông kể: Cùng chung số phận đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thời bấy giờ, gia đình ông nghèo lắm. Các ngôi nhà trong buôn làng bấy giờ tuyềnh toàng, đàn ông đóng khố cởi trần, đàn bà khi lấy chồng có con là trên người chỉ còn độc một cái váy và cũng ở trần như đàn ông. Cha mẹ ông sinh được 4 người con, trong đó có 3 chị gái, ông là con út. Quanh năm quần quật với cái nương, cái rẫy, đói thì đi đào củ rừng, rét thì đốt lửa sưởi, đau thì rước thầy về cúng đuổi ma. Thuở còn ngồi ôm lưng cha, cậu bé KSor Ní đã thấy cảnh lính Pháp từ đồn Cheo Reo (giáp tỉnh Phú Yên bây giờ) về buôn Thăm quê ông lùng bắt người đi lính, đòi thuế và bắt con gái đẹp đưa lên đồn cho quan Tây. Người nào dám chống lại đều bị chúng tra tấn, đánh đập rất dã man. Tuổi thơ ông được nghe kể về những người Cộng sản. Có lần, ông theo cha đi uống rượu với một người đi lính khố xanh cho Tây về phép. Người lính khố xanh này kể chuyện về cuộc đấu tranh lưu huyết của những người tù Cộng sản tại Ngục Kon Tum: “Những người Cộng sản nói Pháp là kẻ cướp nước, cho nên người Cộng sản không sợ chết, không sợ tù đày. Pháp bắn người này ngã xuống, lập tức người sau xông lên, chết vẫn không lùi bước”. Nhiều người ở buôn Thăm tỏ lòng khâm phục, muốn được xem mặt người Cộng sản. Người Cộng sản chống Pháp cũng giống như mình chống Pháp thôi! Ông Siu Jơ Ling, cha của KSor Ní đã nói như vậy sau cái lần bị lính Tây ở đồn Cheo Reo bắt giam mười ngày vì “tội” giấu thanh niên không khai tên để nộp thuế thân. Năm 1935, ông bị Pháp tra tấn đến mang bệnh, không có thuốc thang cứu chữa nên ông Siu Jơ Ling đã qua đời. Sau khi cha mất, KSor Ní phải sang ở với người anh rể Rơ Ô Bơng ở buôn Săm Ma Na bắt đầu học lớp 1 rồi sang tỉnh Buôn Ma Thuột học hết bậc tiểu học (Prime). Suốt 6 năm học, KSor Ní luôn đạt học sinh giỏi. Tốt nghiệp Prime, năm 1941, KSor Ní chuyển đi học tại trường Võ Tánh (Quy Nhơn). Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật lên cầm quyền. Trường Quy Nhơn chuyển sang học tiếng Việt, (trước đó tiếng Việt không được sử dụng, học sinh phải dùng hoàn toàn tiếng Pháp). Đầu tháng 4/1945, trên đường từ Quy Nhơn về Cheo Reo, ông dừng lại ở Plei Ku để nghe ngóng tình hình, ghé thăm ông Nay Phin, Hiệu trưởng Trường tiểu học Plei Ku. Tầng lớp thanh niên trí thức người dân tộc khi ấy thường xuyên tập hợp thành từng tốp nhỏ để diễn thuyết, nói chuyện chống Pháp, ủng hộ cách mạng và Bác Hồ.
Tháng 6/1945, anh Rơ Chăm Thép từ Trường Canh nông ở mãi tỉnh Tuyên Quang về. Gặp KSor Ní, Rơ Chăm Thép mừng lắm. Anh kể: “Ở Tuyên Quang, phong trào Việt Minh nổi lên rất mạnh, kêu gọi đánh Pháp, đuổi Nhật. Chỉ trừ một số ít người về quê, còn lại phần lớn học sinh đều bỏ học, lên rừng theo Việt Minh. Tôi nhớ quê, nhớ cha mẹ quá nên xin về đây”. Anh Rơ Chăm Thép cũng kể cho bạn nghe những điều mình hiểu biết về Việt Minh: “Việt Minh chủ trương đánh Pháp, đánh cả Nhật, giành lại độc lập, tự do cho đất nước Việt Nam, thực hiện đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc”. Thấy vấn đề mới mẻ quá, ông quyết định không về quê, mà ở lại Plei Ku tiếp tục tham dự các buổi sinh hoạt của thanh niên. Tháng 8/1945 sau khi đón đại diện của Việt Minh về tiếp nhận chính quyền tại Plei Ku, ông cùng với ông Nay Phin về quê tổ chức khởi nghĩa, bao vây huyện lỵ Cheo Reo, buộc chính quyền tay sai thân Nhật phải hạ vũ khí đầu hàng. Uỷ ban nhân dân cách mạng huyện Cheo Reo được thành lập do ông Nay Phin làm Chủ tịch, ông được phân công phụ trách tài chính. Ông kể: “Sau ngày 2/9/1945, chúng tôi mới biết cả nước đã có Chính phủ lâm thời do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Cụ Hồ Chí Minh cũng là người đứng đầu Việt Minh, là lãnh tụ của các dân tộc Việt Nam”. Trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước ta đầu năm 1946, ông KSor Ní được bầu là đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh Gia Lai khoá I. Tháng 3/1946, ông về Plei Ku tham gia tổ chức Đại hội đoàn kết nhân dân các dân tộc Tây Nguyên chống Pháp. Đại hội vui mừng được đón nhận thư của Bác Hồ và ghi nhớ lời dạy của Người.
Cuộc đời của ông đã kinh qua nhiều trọng trách ở tỉnh Gia Lai, song điều quý nhất là ông đã để lại những sản phẩm tinh thần, về ý chí và lòng quyết tâm theo Đảng, theo cách mạng và gieo những hạt mầm xanh trên đất Tây Nguyên mà đồng bào Jơ Rai trên quê hương ông mãi mãi bước theo. Các con của ông đều nối gót truyền thống cách mạng của gia đình. Trong số đó có đồng chí KSo Phước, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội; đồng chí KSo Nham, nguyên Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Gia Lai hiện nay là Trung tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Kỹ thuật - Hậu cần (Bộ Công an).
Trước khi chia tay chúng tôi, ông KSo Ní đã đọc bài thơ bằng tiếng Jơ Rai ông viết để tuyên truyền cho đồng bào Tây Nguyên ngày trước. Giọng của ông còn đầy nhiệt huyết: "Hồ Chí Minh anh dũng phi thường!Hồ Chí Minh có chủ trương, đường lối đúng đắn. Chúng ta tuyên truyền cho mọi người biết, tên người như Vàng? Hồ Chí Minh là người điều khiển chế độ chúng ta? Người Jơ Rai, người Tây Nguyên quyết một lòng đánh Pháp". Đọc xong những câu thơ trên, ông đứng dậy đưa bàn tay phải đặt vào bên ngực trái rồi nói: "Đảng, Bác Hồ luôn ở trong trái tim tôi". Mùa mưa Tây Nguyên- những cơn mưa vẫn giăng tràn trên phố núi, giữa một ngôi nhà nhỏ nằm trên đường Phan Đình Phùng, TP Plei Ku, tỉnh Gia Lai, ông KSo Ní đón đứa chắt ngoại từ tay người con gái út, nét mặt ông rạng ngời nhìn lên tấm ảnh Bác Hồ treo trang trọng ở giữa nhà. Tôi nhìn sang bên kia đường là Bảo tàng Hồ Chí Minh, chi nhánh Gia Lai - Kon Tum, những nhánh mai vàng vẫn rực rỡ giữa đất trời Tây Nguyên nắng gió .
Ra đi từ buôn Thăm, trên đường theo Cách mạng, với những điều được trải nghiệm, ông KSor Ní càng thấy rõ hạnh phúc của mỗi gia đình, mỗi dân tộc đều không thể tách rời hạnh phúc chung của cả đất nước.