Người đồng tính không phải là những người hư hỏng
Bà Trần Hồng Điệp, đại diện Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học về giới, gia đình, phụ nữ và vị thành niên (CSAGA) cho biết: Kết quả một cuộc khảo sát sơ bộ với 23 người đồng tính nữ sinh sống ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Lào Cai và Thái Nguyên cho thấy họ thường gặp khó khăn trong cuộc sống. Đa số các bậc phụ huynh đều có quan niệm đồng tính là một căn bệnh, một vấn đề xấu. Khi biết con mình bị đồng tính nữ, họ có các hành động như ngăn cấm quyết liệt, đồng thời thuyết phục, hướng con đi theo lẽ thường như lấy chồng, để tóc dài, mặc trang phục nữ tính... Chính sự phản đối gay gắt của cha mẹ đã gây căng thẳng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của giới trẻ. “Người đồng tính không phải là những người hư hỏng. Họ là những người bình thường, sống cuộc sống bình thường, duy chỉ có xu hướng tính dục khác lẽ thường theo quan niệm xã hội từ xưa”, bà Trần Hồng Điệp nhấn mạnh.
Hạnh phúc ngọt ngào của cặp đôi đồng tính nữ.
Đối với những người đồng tính nữ, sự định kiến nặng gấp hai lần so với những người đồng tính nam vì ngoài việc phải chịu định kiến về đồng tính, họ còn phải mang định kiến giới. Chính vì vậy, sự ủng hộ của những người thân, nhất là cha mẹ sẽ giúp họ có niềm tin vượt qua những định kiến xã hội.
Các hình thức phân biệt chủ yếu là dùng lời nói dè bỉu khi nhắc đến người đồng tính nữ (chiếm 31,8%); bắt chước một số hành vi ứng xử của người đồng tính nữ với mục đích giễu cợt (chiếm 29,6%); hoặc luôn lấy người đồng tính nữ ra làm trò đùa mua vui (chiếm 27,5%). Mức độ phân biệt đối xử trở nên nghiêm trọng hơn khi người người đồng tính nữ bị từ chối tuyển dụng vào làm việc. Có 23,9% người dân được hỏi cho biết có tình trạng người người đồng tính nữ bị từ chối tuyển dụng vào làm việc. Đặc biệt, tình trạng học sinh, sinh viên bị kỳ thị ở trường học vẫn còn phổ biến (chiếm 39,1%).
Và khát vọng được chia sẻ, yêu thương…
Riêng về nhóm đồng tính nữ tại Việt Nam, kỳ vọng lớn nhất của họ là được sự chia sẻ, yêu thương và kết bạn với người cùng cảnh ngộ (chiếm 84,3%) và nâng cao hiểu biết về quyền của người người đồng tính nữ (chiếm 61,8%); 77,9% đồng tính nữ muốn bộc lộ bản dạng giới của mình trong khi môi truờng để bộc lộ còn nhiều kỳ thị; 83,2% người đồng tính nữ có nhu cầu tham gia các câu lạc bộ hoặc mạng lưới của người đồng tính nữ. Ngoài ra, người đồng tính nữ cũng có mong muốn nâng cao kiến thức và kỹ năng ứng xử (chiếm 46,1%); cải thiện kỹ năng giải quyết các vấn đề và kỹ năng thường gặp (chiếm 43,8%) và tham gia các sự kiện của người người đồng tính nữ (chiếm 38,2%)…
Thời gian gần đây, các phong trào vận động cho quyền của nhóm người đồng tính nữ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Xã hội đã có cái nhìn đúng đắn và cởi mở hơn với nhóm người đồng tính nữ và đây cũng là chủ đề được đưa ra thảo luận công khai và cũng đạt được những thành công nhất định. Đã có nhiều thay đổi trong hệ thống pháp luật, chính sách để đảm bảo nhiều hơn quyền con người của nhóm còn chịu nhiều thiệt thòi và kỳ thị này. Tuy nhiên, trong cộng đồng người đồng tính nữ, mỗi nhóm lại có những khó khăn riêng trong việc đối mặt với kỳ thị và vi phạm quyền. Riêng với cộng đồng đồng tính nữ, vấn đề mà họ phải vượt qua có những nét riêng biệt, bởi ngoài việc là người đồng tính, họ còn là phụ nữ. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam, khi vai trò, vị trí của người phụ nữ nói chung vẫn chưa được ngang bằng với nam giới, tiếng nói và việc ra quyết định của họ cho chính cuộc đời mình còn yếu ớt và khó khăn. Khi họ lại là người đồng tính, thì tiếng nói ấy còn yếu ớt hơn nữa.
Người đồng tính nữ vượt qua nhiều rào cản để xây dựng hạnh phúc.
Bản thân người đồng tính nữ có nhu cầu bộc lộ bản dạng giới với những người thân trong gia đình, đặc biệt là cha mẹ, anh chị em ruột thịt. Tuy nhiên, do sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử nên hầu hết người đồng tính nữ chưa dám bộc lộ bản giới của mình với người thân. Việc che giấu bản dạng giới khiến cho những người đồng tính nữ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là tình trạng bị phân biệt đối xử và chịu đựng hành vi về tinh thần.
Có những trường hợp cha mẹ đánh, nhốt con để chữa bệnh vì nghĩ đồng tính là một căn bệnh (15,7% cha mẹ đay nghiến, nhiếc móc chửi mắng; 14,3% ngăn cấm tiếp xúc; 4% đánh đập, bạo lực về thể chất). Có nhiều trường hợp vì sức ép của gia đình các bạn phải “hợp đồng” lấy một người không yêu và chấp nhận sống đời sống vợ chồng giả. Đó chính là lý do ít thấy sự hiện diện của nhóm đồng tính nữ tại Việt Nam. Các phong trào của họ lẫn vào trong nhóm chung người đồng tính nữ trong khi các nhóm khác như chuyển giới, đồng tính nam có những nhóm có tiếng nói mạnh mẽ trong các phong trào. Những thông tin và con số trên đây đòi hỏi phải sớm có hoạt động nhằm bảo vệ cộng đồng người đồng tính nói chung và cộng đồng đồng tính nữ nói riêng.