Ảnh minh họa (Internet)
Dễ nhầm với lao phổi
Bệnh nhân M.N.V 60 tuổi (quê Thái Nguyên) có biểu hiện ho nhiều, sốt nhẹ, thậm chí ho ra máu. Sau gần một tuần âm thầm chịu đựng, đến ngày thứ năm, bệnh nhân bị đau thắt ngực dữ dội. Vào viện khám, các bác sĩ giữ lại cấp cứu.
Với những biểu hiện như sốt vào một khung giờ nhất định, ho có máu và nhiều đờm, ngay cả các bác sĩ cũng rất dễ chẩn đoán nhầm là bệnh lao phổi. Bệnh nhân V. sau đó được chuyển xuống Bệnh viện Phổi Trung ương, qua các xét nghiệm và chụp cắt lớp 64 dãy có cản quang, bác sĩ ở đây cho rằng, bệnh nhân có huyết khối ở phổi, gây tổn thương phổi và ngay lập tức chuyển bệnh nhân sang một bệnh viện chuyên về tim mạch.
Bác sĩ Khổng Nam Hương (khoa C1, Viện Tim mạch Việt Nam) cho biết: Tắc động mạch phổi hay thường gọi là nhồi máu phổi là một bệnh lý hết sức nặng, thường dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời. Tắc mạch phổi là một bệnh lý khá thường gặp, bệnh cảnh lâm sàng đa dạng, dễ bị bỏ sót hoặc chẩn đoán nhầm, tử vong thường do rối loạn huyết động khi tắc mạch phổi diện rộng. Theo bác sĩ Hương, nhồi máu phổi có thể đe dọa tính mạng, nhưng nếu cấp cứu kịp thời có thể chữa khỏi hoặc làm giảm các nguy cơ gây tổn thương phổi vĩnh viễn.
Một số biểu hiện nhận biết bệnh nhồi máu phổi
Nguyên nhân chính của nhồi máu phổi là sự gia tăng khối u trong các mạch máu của cơ thể. Nguyên nhân phổ biến nhất có thể dẫn đến đau tim là do chứng huyết khối tĩnh mạch, huyết khối mạch máu của tĩnh mạch ở các chi dưới. Ngoài ra, tổn thương chấn thương xương ống cũng có thể là nguyên nhân chính của sự phát triển, có thể gây tắc nghẽn chất béo của một số mạch máu của màng phổi. Các hoạt động phẫu thuật, đặc biệt là trên tĩnh mạch của các chi, cũng có thể dẫn đến sự phát triển tiếp theo của thiếu máu phổi.
Triệu chứng của nhồi máu phổi phụ thuộc vào kích thước của cục máu đông và vị trí của nó trong phổi. Triệu chứng thường gặp nhất là khó thở xuất hiện từ từ hoặc đột ngột.
60 - 70% bệnh nhân nhồi máu phổi biểu hiện triệu chứng kinh điển là đau ngực với kiểu đau “viêm màng phổi” và chẹn ngực, đôi khi kèm với ra nhiều mồ hôi, sợ hãi. Đặc biệt, bệnh có những triệu chứng dễ bị chẩn đoán nhầm: 50% đau chân hoặc chân sưng to; ho ra máu (khoảng 10%); nhịp tim nhanh (nhịp nhanh xoang hoặc rung nhĩ); đau thắt ngực (đau bên phải do tăng công thất phải và thiếu oxy máu); ngất (do cung lượng tim giảm tạm thời). Nhồi máu phổi rộng hoặc nhồi máu phổi tái diễn nhiều lần có thể làm cho buồng tim giãn. Ngoài ra, còn một số triệu chứng khác như: đau thắt ngực (đau bên phải do tăng công thất phải và thiếu oxy máu); ngất (do cung lượng tim giảm tạm thời); bệnh nhân thường có biểu hiện bồn chồn, lo lắng; thở nhanh; nhịp tim nhanh; ra nhiều mồ hôi; huyết áp thấp; rối loạn ý thức…
Ảnh minh họa (Internet)
Chữa trị thế nào?
Theo PGS.TS Tạ Mạnh Cường, khi có các biểu hiện trên, cần phải nhập viện cấp cứu tại đơn vị hồi sức tích cực để đánh giá toàn diện và chính xác tình trạng huyết động của bệnh nhân, tùy theo từng trường hợp sẽ được xử lý cấp cứu bằng điều trị triệu chứng (sốc tim, thuốc tăng cường co bóp tim, thở oxy) hoặc điều trị cấp cứu bằng thuốc tiêu sợi huyết hoặc phẫu thuật lấy huyết khối…
Tùy thuộc vào kích thước của cục máu đông và vị trí của nó trong phổi mà bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp điều trị cụ thể.
- Với những tình trạng nhẹ, phát hiện sớm, bác sĩ có thể dùng một số loại thuốc làm phá hủy các cục máu đông nhỏ như: thuốc chống đông, thuốc tiêu sợi huyết.
- Phẫu thuật có thể được chỉ định để lấy cục máu đông, đặc biệt nếu nó gây cản trở dòng máu đến tim, phổi. Các quy trình phẫu thuật có thể được sử dụng: lưới lọc tĩnh mạch; lấy bỏ cục máu đông, mổ mở.
Sau khi đã được điều trị nhồi máu phổi ở bệnh viện, bệnh nhân sẽ được chỉ định điều trị nguyên nhân. Bác sĩ có thể chỉ định sử dụng thuốc chống đông để ngăn chặn cục máu đông hình thành trở lại.
Theo bác sĩ Khổng Nam Hương, vận động chân thường xuyên là chìa khóa cho điều trị nhồi máu phổi. Các bác sĩ sẽ đưa ra những hướng dẫn để người bệnh có thể tự chăm sóc và ngăn ngừa các cục máu đông trong tương lai.
Vân Nhi/TC GĐ&TE