
Bà Lesley Miller đánh giá, năm 2022 là một năm khó khăn do đại dịch COVID-19, nhưng Việt Nam vẫn đã có những nỗ lực và đã đạt được một số kết quả tích cực trong công tác bảo vệ trẻ em.
“Việt Nam đã làm rất tốt trong việc tiêm phòng COVID cho người dân. Tính đến tháng 12 năm 2022, hầu hết người dân trên 12 tuổi và hơn 90% trẻ từ 5-11 tuổi đã được tiêm liều vắc-xin cơ bản phòng COVID. Bên cạnh đó, công tác nâng cao, phòng ngừa và xây dựng các chương trình về sức khỏe tâm thần trong trường học cũng đã được tăng cường thông qua các chương trình tập huấn cho đội ngũ cán bộ y tế học đường và giáo viên nòng cốt. Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng UNICEF đã tiến hành một nghiên cứu toàn diện về các yếu tố liên quan đến trường học có ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần. Các buổi tham vấn, hội thảo và hội nghị với thanh thiếu niên cũng được thực hiện để tăng cường sự tham gia của trẻ em vào việc nâng cao sức khỏe tâm thần”, bà Lesley Miller khẳng định.
Theo bà Lesley Miller, cũng như tất cả các quốc gia khác, Việt Nam vẫn đang chật vật giải quyết những tác động kinh tế - xã hội sâu rộng của đại dịch COVID-19. Điều này tác động đặc biệt nặng nề tới những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất như trẻ em khuyết tật, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em bị ảnh hưởng bởi di cư, biến đổi khí hậu hay xung đột.
Đại dịch đã ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong cuộc sống của trẻ em: sức khỏe thể chất và tâm thần, dinh dưỡng, học tập, phòng, chống bạo lực cũng như tiếp cận với nước sạch và vệ sinh. Tiến độ thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) đã chậm lại trên nhiều bình diện, đặc biệt là tỷ lệ tiêm chủng thường xuyên cho trẻ em dưới 1 tuổi đã giảm từ trên 80% xuống còn 67% tính đến tháng 10 năm 2022. Tương tự như vậy, tiến độ giảm bạo lực đối trẻ em đã chững lại, cụ thể là trên 72% trẻ em trong độ tuổi 1-14 bị kỷ luật bằng bạo lực ở gia đình. Đây là một thời điểm then chốt. Việc đưa tuổi thơ trở lại với mọi trẻ em đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất gặp phải những vấn đề này, nhưng điều ấn tượng là Việt Nam đã có cam kết mạnh mẽ và ưu tiên nguồn lực để giải quyết những thách thức này. Cần tìm ra các giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề về suy dinh dưỡng, tổn thất về học tập do trường học đóng cửa, việc trẻ em bỏ lỡ các mũi tiêm chủng thường xuyên, không được khám sức khỏe do dịch bệnh hay việc các em phải âm thầm chịu đựng sự căng thẳng, nỗi cô đơn và phải hứng chịu cả bạo lực gia đình với tỷ lệ gia tăng.
Để trẻ em được chăm sóc, bảo vệ một cách tốt nhất trong thời gian tới, bà Lesley Miller khuyến nghị, chúng ta nên tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể sau:
Trước hết, Việt Nam có thể giảm nhẹ các tác động do suy dinh dưỡng cấp tính nặng gây ra đối với tử vong và mức độ phát triển của trẻ em, nếu bảo hiểm y tế chi trả các sản phẩm dinh dưỡng điều trị cho trẻ em cho đến 6 tuổi – sản phẩm điều trị có khả năng cứu sống các em. Hiện nay, theo ước tính, 90% trong số 200.000 trẻ em bị suy dinh dưỡng cấp tính nặng mỗi năm không được điều trị. UNICEF tin rằng con đường hiệu quả và hiệu lực nhất để làm được điều này là thông qua sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam nhằm giúp Chính phủ đảm bảo những trẻ em dễ bị tổn thương nhất có thể tiếp cận được những sản phẩm dinh dưỡng và tạo điều kiện để nhân viên y tế cung cấp những sản phẩm này cho trẻ em ngay khi xác định trẻ bị suy dinh dưỡng. Vì quá trình sửa đổi luật có thể diễn ra trong thời gian dài, Chính phủ cần áp dụng các giải pháp tức thời như phân bổ nguồn lực (khoảng 13 triệu Đô la Mỹ/năm) cho việc mua những sản phẩm dinh dưỡng này.
Thứ hai, cần đảm bảo trẻ em được tiêm chủng đầy đủ và kịp thời, và đầu tư nhiều hơn vào hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu ở tuyến cơ sở. Dựa trên các bằng chứng về dịch bệnh bùng phát trên toàn cầu, nguy cơ bị phơi nhiễm với các bệnh có khả năng gây tử vong cao ở trẻ em ngày càng tăng. Hơn nữa, việc đầu tư nhiều hơn vào hệ thống y tế tuyến cơ sở sẽ giúp giảm phụ thuộc vào các loại thuốc đắt đỏ và hệ thống y tế tuyến trên.
Thứ ba, các chương trình trợ giúp xã hội cần được tăng cường, cùng với việc tăng thêm những khoản đầu tư thông minh. Bằng chứng quốc tế rất thuyết phục: an sinh xã hội làm giảm sự bất bình đẳng trong thu nhập, duy trì việc trẻ em đi học, đảm bảo sức khỏe tốt hơn, đưa người dân thoát khỏi cảnh nghèo và tạo ra lợi nhuận dương trong tăng trưởng kinh tế nói chung.
Thứ tư, cần tiếp tục phát huy những nỗ lực gần đây trong việc phòng, chống bạo lực trẻ em và tăng cường hệ thống bảo vệ trẻ em. Theo tính toán từ một nghiên cứu về gánh nặng kinh tế mà vấn đề bạo lực trẻ em gây ra ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, bạo lực trẻ em gây ra tổn thất lên tới 194 tỷ đô-la Mỹ, tức 2% GDP của khu vực. Công tác phòng, chống xâm hại trẻ em bắt đầu từ việc thiết lập một mạng lưới các nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản ở cấp địa phương. Việc cải thiện công tác phối kết hợp, tập huấn và giám sát của các bộ, ngành và bên liên quan cũng sẽ giúp củng cố hệ thống hiện nay.
Thứ năm, xét đến thị trường lao động trong tương lai sẽ không ngừng biến đổi, trẻ em và thanh thiếu niên cần được chuẩn bị hành trang tốt hơn để gia nhập lực lượng lao động. Cần cải cách chương trình học và phương pháp sư phạm, tập trung vào các kỹ năng chuyển đổi, hiểu biết kỹ thuật số và các môn khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM) - đặc biệt cho trẻ em gái. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục phải tiếp tục thúc đẩy giáo dục hòa nhập cho mọi trẻ em và đầu tư xây dựng lực lượng chuyên gia được đào tạo bài bản về sức khỏe tâm thần, để trẻ em có thể học tập và phát triển trong môi trường học tập an toàn, lành mạnh và không bạo lực.
Thứ sáu, Việt Nam nằm trong 10 quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất của khủng hoảng khí hậu, trong đó nhóm trẻ em dễ bị thương nhất chịu tác động lớn hơn cả. Việc đầu tư vào ngành nước sạch và vệ sinh sao cho thích ứng với biến đổi khí hậu, xây dựng các trường học và chương trình thông minh với khí hậu, dự phòng thiên tai và giảm nhẹ rủi ro thiên tai đều rất quan trọng.
Những hoạt động ưu tiên của UNICEF cho trẻ em Việt Nam năm 2023
UNICEF hỗ trợ đẩy mạnh thực hiện quyền trẻ em để đảm bảo không trẻ em nào bị bỏ lại phía sau. Lấy nguyên tắc công bằng làm cốt lõi, UNICEF thúc đẩy đảm bảo tiếp cận cho những nhóm dân số thiệt thòi và yếu thế nhất, đặc biệt là nhóm dân tộc thiểu số.
Năm 2023, UNICEF sẽ tiếp tục hợp tác với Chính phủ Việt Nam và các ban ngành liên quan trong các lĩnh vực như sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần, dinh dưỡng, tiếp cận nước sạch và vệ sinh, giáo dục, bảo vệ và trợ giúp xã hội cho trẻ em. Chúng tôi hoàn toàn cam kết cung cấp hỗ trợ kỹ thuật nhằm kiện toàn hệ thống pháp luật, chính sách và kế hoạch, nâng cao năng lực cho các đối tác, thí điểm các giải pháp sáng tạo - tập trung vào chuyển đổi số, thúc đẩy thay đổi nhận thức và chuẩn mực xã hội, huy động sự ủng hộ, hỗ trợ nhằm thúc đẩy thực hiện quyền trẻ em.
Trong bối cảnh các tác động và thảm họa liên quan đến khí hậu ngày càng gia tăng, chúng tôi cũng sẽ thúc đẩy các dịch vụ xã hội nhạy cảm với trẻ em và thích ứng với khí hậu, và tăng cường năng lực giảm nhẹ rủi ro thiên tai và ứng phó sao cho hiệu quả.
Các mối quan hệ đối tác chính là chìa khóa để chúng tôi đạt được những mục tiêu này. Bên cạnh hợp tác với Chính phủ, các tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ, những người có tầm ảnh hưởng và đối tác phát triển, chúng tôi sẽ khai thác tiềm năng của khu vực tư nhân trong việc thúc đẩy quyền trẻ em thông qua quan hệ đối tác công - tư và trên cơ sở chia sẻ giá trị nhằm thúc đẩy chính sách thân thiện với gia đình trong doanh nghiệp và bảo vệ người lao động trẻ.