Khu vực nông thôn hiện có 8,61 triệu hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 53,9%; 3,22 triệu hộ công nghiệp-xây dựng, chiếm 20,1%; 3,11 triệu hộ dịch vụ, chiếm 19,4% và 1,05 triệu hộ khác, chiếm 6,6%.
Theo kết quả sơ bộ, tại thời điểm 1/7/2016 cả nước có 15,99 triệu hộ nông thôn. Trong giai đoạn 2006-2016, số hộ nông thôn của cả nước tăng 2,22 triệu hộ (tăng 16,1%), tập trung chủ yếu giai đoạn 2006-2011 tăng 1,58 triệu hộ (tăng 11,4%).
So với năm 2011, số hộ nông thôn của cả 6 vùng KT-XH đều tăng, trong đó ba vùng có tốc độ tăng cao nhất là: Tây Nguyên (tăng 10,6%), Đông Nam Bộ (tăng 8,2%) và Trung du và miền núi phía Bắc (tăng 7,8%) nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng di cư, mặt khác những vùng này có tỷ lệ tăng dân số tự nhiên cao so với cả nước.
Cơ cấu hộ nông thôn có sự chuyển dịch từ hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản sang hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản
Cụ thể, khu vực nông thôn hiện có 8,61 triệu hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 53,9%; 3,22 triệu hộ công nghiệp-xây dựng, chiếm 20,1%; 3,11 triệu hộ dịch vụ, chiếm 19,4% và 1,05 triệu hộ khác, chiếm 6,6%. Sau mười năm, cơ cấu hộ khu vực nông thôn có sự chuyển dịch rõ nét từ hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản sang hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Tỷ trọng hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 71,1% năm 2006 xuống 62,1% năm 2011 và 53,9% năm 2016; tỷ trọng hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng tương ứng 25,1%, 33,4% và 39,6%.
Cùng với đó, Tổng cục Thống kê cho biết, xu hướng biến động của hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản ngược với hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Xét trên phạm vi cả nước, số hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản ở có xu hướng giảm qua ba kỳ Tổng điều tra và ngày càng thể hiện rõ nét. Năm 2011 có 9,54 triệu hộ, giảm 248 nghìn hộ (giảm 2,5%) so với năm 2006; năm 2016 có 8,61 triệu hộ, giảm 925,2 nghìn hộ (giảm 9,7%) so với năm 2011.
Cũng trong giai đoạn 2011-2016, số hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng gần 1,2 triệu hộ (+23,2%), trong đó số hộ công nghiệp-xây dựng tăng 39,6%; hộ dịch vụ tăng 9,9%. Nhóm hộ công nghiệp-xây dựng tăng mạnh ở tất cả các vùng; một số tỉnh tăng rất cao như Hải Dương (+75%), Bắc Ninh (+69,3%), Đồng Nai (+41,3%).
Như vậy, trong mười năm 2006-2016, xu hướng thay đổi của hộ công nghiệp-xây dựng ngược với hộ nông thôn. Nếu như hộ nông thôn tăng 16,1% thì ngược lại hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 12,0%.
Số hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm, từ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng.
Ở khu vực nông thôn, số hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng có xu hướng giảm. Sau 10 năm, tỷ trọng hộ có nguồn thu nhập từ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 67,8% năm 2006 xuống còn 57,1% năm 2011 và 49% năm 2016.
Tỷ trọng nhóm hộ có nguồn thu nhập từ các hoạt động phi nông, lâm nghiệp và thủy sản đều tăng, tăng nhiều nhất thuộc nhóm hộ có nguồn thu nhập từ hoạt động công nghiệp-xây dựng, chiếm tỷ trọng là 11,3% năm 2006; 17,3% năm 2011 và 22,7% năm 2016.
Kết quả trên phản ánh xu hướng phát triển sản xuất của các vùng, những vùng có ngành nghề phi nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển, nguồn thu nhập của người dân không còn phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp.