Mục đích của chương trình này nhằm hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện khung chính sách, luật pháp và chương trình hiện tại giúp ngăn chặn và chấm dứt việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới, trong đó bao gồm: các chiến dịch truyền thông thay đổi các chuẩn mực xã hội và các thực hành củng cố cho việc ưa thích con trai và hạ thấp giá trị của con gái thông qua các phương pháp tiếp cận sáng tạo và đổi mới; nâng cao năng lực cho phóng viên báo chí và truyền hình; thực hiện các chương trình làm cha trách nhiệm; và tăng cường cơ chế điều phối liên ngành trong việc giải quyết vấn đề lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới.
Bà Grethe Løchen, Đại sứ Na Uy tại Việt Nam cho biết: "Tăng cường và bảo vệ các chuẩn mực toàn cầu về các thực hành và quyền của trẻ em gái và phụ nữ, bao gồm thay đổi quan niệm của xã hội về sự ưa thích con trai, là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Na Uy. Trong lĩnh vực này, các biện pháp tích hợp giúp nâng cao vị thế, cơ hội và quyền của trẻ em gái và phụ nữ là những biện pháp hiệu quả nhất. Chính phủ Na Uy đã và đang làm việc với nhiều cơ quan đối tác và các bên liên quan, bao gồm UNFPA, để giải quyết vấn đề này trên toàn cầu, khu vực và các quốc gia."
"Tôi rất vui mừng khi thấy tại Việt Nam, UNFPA hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam và cùng với sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ Na Uy, đang tiên phong trong việc giải quyết vấn đề lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới. Các mối quan hệ hợp tác chặt chẽ và cách tiếp cận toàn diện là những biện pháp then chốt giúp mang lại thành công trong việc giải quyết các thực hành có hại."
Bình đẳng giới ở Việt Nam đã được cải thiện trong nhiều thập kỷ qua, nhưng vấn đề lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới là một thực hành có hại vẫn tồn tại trong xã hội. Lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới đã được xác định là nguyên nhân chính gây mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam. Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam đã được phát hiện vào năm 2004 và bắt đầu từ năm 2005 trở đi thì sự chênh lệch số bé trai và bé gái đã nhanh chóng tăng lên và ở mức 111,5 bé trai trên 100 bé gái vào năm 2019 như đã được công bố từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.
Ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình cho biêt: "Mất cân bằng giới tính khi sinh là một vấn đề đáng báo động và có xu hướng tiếp tục lan rộng, cả nông thôn, thành thị và nhiều vùng miền. Vì thế, một trong những Mục tiêu của Chiến lược dân số Việt nam đến năm 2030 là đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên. Giải pháp then chốt là phải tăng cường công tác bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ và trẻ em gái, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động thay đổi nhận thức của người dân, phát huy hơn nữa sự tham gia của nam giới vì bình đẳng giới. Cần có những hành động thiết thực bảo vệ trẻ em để các em sinh ra được bình đẳng, dù là trai hay gái."
Bằng chứng cho thấy sự mất cân bằng nhân khẩu học này là kết quả của việc lựa chọn giới tính trước khi sinh do mong muốn có con trai, có cội nguồn từ văn hóa truyền thống ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Sự ưa thích con trai thể hiện một cách rõ ràng vấn đề bất bình đẳng giới.
Bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam nói: "Chúng ta cần phải chấm dứt quan niệm ưa thích con trai và không coi trọng giá trị của trẻ em gái trong các nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới. Việt Nam đang đạt được nhiều tiến bộ, nhưng những tiến bộ này cần phải được thúc đẩy nhanh hơn nữa trong Thập kỷ Hành động vì các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs). Trong chương trình dự án này, chúng tôi sẽ hỗ trợ Việt Nam và các tổ chức xã hội thúc đẩy hơn nữa sự thay đổi hướng tới một đất nước Việt Nam hiện đại và tiến bộ, để mọi phụ nữ và trẻ em gái đều có cơ hội thành công trong xã hội như nam giới và trẻ em trai, và các trẻ em gái đều được coi trọng và có giá trị như trẻ em trai."
Theo Bà Naomi Kitahara, giải quyêt vấn đề lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới không chỉ để đảm bảo bình đẳng giới, mà còn giúp cải thiện được tình trạng kết hôn của dân số trong tương lai do hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh, và điều này này có thể dẫn tới việc giảm mức sinh ở Việt Nam. Do đó, cần có nhiều nỗ lực hơn nữa trên toàn quốc để thúc đẩy việc thực hiện các khung chính sách và luật pháp hiện có để ngăn chặn việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới và thúc đẩy bình đẳng giới một cách mạnh mẽ và sâu rộng hơn.