Chủ tịch Hồ Chí Minh bỏ lá phiếu đầu tiên bầu cử Quốc hội khóa I. (Ảnh tư liệu)
Một đất nước - cũng như một con người - quãng thời gian 60 năm là đủ để khẳng định những chân giá trị, là dịp để nhìn lại và suy nghĩ trước chặng đường mới.Tròn 60 năm về trước, đất nước còn chia làm hai miền, thời hạn để “hiệp thương tổng tuyển cử” theo Hiệp nghị Genève sắp hết mà triển vọng để hòa bình thống nhất đất nước đang bị đe dọa. Trước tình hình đó, ngày 6/7/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Thư gửi đồng bào cả nước.”
Sau khi nêu rõ “đường lối đấu tranh” là toàn dân từ Nam đến Bắc đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, Hồ Chủ tịch viết:
“Hễ là con Hồng cháu Lạc, người có lương tâm, thì chắc ai cũng tán thành và ủng hộ mục đích cao cả ấy. Cho nên chúng ta đoàn kết rộng rãi tất cả những người Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu hòa bình, yêu thống nhất trong cả nước và cả ở nước ngoài….”
Trong đoạn kết, Người kêu gọi và khẳng định:
“Hỡi toàn thể đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài!
Nước Việt Nam ta nhất định phải thống nhất. Đồng bào Nam và Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Toàn thể đồng bào hãy quyết tâm đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ trên Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam...”
Bác Hồ với đồng bào dân tộc. (Ảnh tư liệu)
Một chi tiết rất đáng chú ý là trong một bức thư ngắn mà Hồ Chủ tịch nhắc đến từ đoàn kết 8 lần! Và đặc biệt, trong câu kết thì Người nâng lên thành “đại đoàn kết”: “...Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi”. Đây không chỉ là nét đặc biệt về tu từ học, là biểu hiện tầm quan trọng, mối bận tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết toàn dân tộc, mà còn là hoài bão lớn lao về nghĩa đồng bào Việt, về ước vọng nước non Việt “sum họp một nhà” của Người.
Chúng ta đều biết Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở vấn đề đoàn kết dân tộc, nhất là từ khi Người về nước trực tiếp chỉ đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, nhưng chỉ trong một lá thư ngắn mà 8 lần Người nói đến đoàn kết; điều đó đã chứng tỏ mối quan tâm đặc biệt và cả nỗi lo lắng sâu sắc về tình trạng đất nước chia làm hai miền sẽ bị kéo dài, không chỉ về địa lý với con sông Bến Hải làm giới tuyến, mà là sự chia rẽ về ý thức hệ không thể “nối liền”, dẫn đến những hệ lụy sâu xa về nhiều mặt. Không phải ngẫu nhiên, trong đoạn cuối lá thư, sau khi khẳng định “Nước Việt Nam ta nhất định phải thống nhất”, Hồ Chủ tịch còn viết thêm: “Đồng bào Nam và Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà.”
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi, dũng sĩ miền Nam. (Ảnh tư liệu)
Hồ Chủ tịch vốn nổi tiếng về văn phong ngắn gọn, súc tích. Vậy thì vì sao Người đã khẳng định Việt Nam phải thống nhất, lại còn viết thêm “Nam Bắc sẽ sum họp một nhà”? Hai cụm từ đã quá quen thuộc và đã gắn kết thành một khẩu hiệu thể hiện quyết tâm của hàng triệu dân Việt mấy chục năm qua, nhưng có lẽ không nhiều người suy nghĩ, phân tích sự khác nhau cả về nội dung và tầm mức sâu rộng của hai cụm từ đó. Nhiệm vụ “thống nhất đất nước” tuy là hệ trọng nhưng đây là mục tiêu có thể được thực hiện bằng pháp lý, hay động thái chính trị, quân sự (như cuộc Tổng tiến công 1975, rồi cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước ngày 25/4/1976 đưa đến Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất họp ngày 24/6/1976); còn muốn “đồng bào Nam và Bắc” đi tới “sum họp một nhà” là một mục tiêu không hề đơn giản, không thể dùng cường quyền ép buộc được vì nó tùy thuộc vào tâm hồn, tình cảm và cả nếp sống, lễ giáo, tín ngưỡng… của mỗi con người. Vì thế đây là một mục tiêu thoạt nghe tưởng là nhẹ nhàng, vui vẻ, gợi cảnh “đoàn viên” đẹp đẽ nhưng thực ra vô cùng khó khăn, lâu dài, nhất là với một dân tộc đã phải trải nhiều phân ly đau đớn vì ngoại xâm, vì sự khác biệt ý thức hệ, từ sau năm 1945, chứ không đợi đến cuộc di cư vào Nam năm 1954 cũng như cuộc di tản hàng triệu người 30 năm sau. Chính vì thế mà từ năm 1956, chỉ trong một lá thư, Hồ Chủ tịch đã 8 lần nhắc đến việc đoàn kết dân tộc và sau khi viết đất nước “phải” thống nhất, Người dùng từ “sẽ” khi nói đến mục tiêu “sum họp một nhà”.
Tròn 60 năm đã qua từ ngày đó. Điều mà chúng ta đều thấy là ước mong và quyết tâm của Người cũng như của toàn dân tộc Việt Nam về một Đất nước thống nhất đã được thực hiện hơn 40 năm về trước.
Nhưng hoài bão sum họp một nhà, mọi người Việt Nam ở trong nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới đều đồng lòng nhất trí, đều “thu về một mối” để cùng vun đắp và dựng xây đất nước cường thịnh, vẫn còn là một tiến trình chúng ta đang phấn đấu, vẫn còn là nỗi băn khoăn của không ít người. Nỗi băn khoăn này có lúc đã làm ảnh hưởng đến sức mạnh chính trị chung, thậm chí làm cho chúng ta chậm bước trong việc hòa nhập và “cất cánh” cùng các quốc gia tiên tiến ở trong khu vực và trên thế giới.
Sau Đại hội 12 của Đảng cũng như sau khi kiện toàn Quốc hội, Chính phủ, chúng ta lại như được nghe lời kêu gọi đoàn kết dân tộc, thông qua những lời phát biểu của các vị lãnh đạo cao cấp trên nhiều diễn đàn quan trọng nhất của đất nước. Thực ra, ở bất kỳ đất nước nào, trước một giai đoạn mới, “đoàn kết dân tộc” là biện pháp đầu tiên nhất thiết phải nhắc đến; như vậy cũng có thể hiểu, “đoàn kết dân tộc” là việc mà dân gian thường có câu: “Nói thì dễ, nhưng làm thì khó”! Rất khó, vì con người ta vốn “bách tính”, lại còn quyền lợi đơn vị, phe nhóm, địa phương trong bất cứ thể chế nào cũng ít nhiều mâu thuẫn, xung đột với nhau…
60 năm qua, quãng thời gian mà thế giới cũng như Việt Nam đã có những đổi thay to lớn, nên vấn đề đặt ra cấp thiết lúc này là đường lối chính sách phải “Đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ” như Báo cáo chính trị tại Đại hội 12 đã đề ra thì nhiệm vụ đoàn kết dân tộc từ khẩu hiệu mới trở thành hiện thực. Cuộc sống phức tạp nhưng cũng rất giản dị. Xin hãy lấy hình ảnh “sum họp một nhà” trong lá thư của Hồ Chủ tịch để dẫn giải. Anh em trong một nhà làm sao có thể đoàn kết thân ái khi cha mẹ ôm ấp, coi trọng đứa này, xa lánh, khinh nhờn đứa kia, miếng bánh chia không đều, áo quần đứa “hàng hiệu”, đứa “đồ bành” rẻ mạt?.... Vấn đề quả thật giản dị. Còn có những điều không công bằng, còn có tình trạng độc quyền, “lợi ích nhóm” đang diễn ra ở không ít lĩnh vực.., đã dẫn đến nhiều vụ khiếu kiện, nhiều vụ tham nhũng không chỉ gây thiệt hại lớn về kinh tế mà còn làm xói mòn khối đại đoàn kết dân tộc. Chương trình “tái cơ cấu nền kinh tế” mà Chính phủ đang chỉ đạo thực hiện cũng như thái độ kiên quyết của UBND một số địa phương đối với các công trình xây sai phép gần đây là để bảo đảm sự công bằng của công dân, của các thành phần kinh tế trước pháp luật, trước các cơ hội phát triển - một trong các điều kiện để đoàn kết toàn dân. Tuy vậy, đây chỉ mới là các vụ việc cụ thể và trong hoạt động kinh doanh. Vấn đề là phải tạo thể chế bảo đảm sự công bằng quyền công dân về nhiều mặt quan trọng hơn nữa...
Chúng ta kỳ vọng là sau kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp vào ngày 22/5/2016 tới đây, những “cơ chế” lạc hậu, lỗi thời duy trì tình trạng đặc quyền, đặc lợi cũng như các hiện tượng tiêu cực như “gia đình trị”, đề bạt, ưu ái “nhóm lợi ích” và người thân quen... mà dư luận đã phản ánh, sẽ được giải quyết tận gốc. Chỉ có như thế mới phát huy được “sức mạnh đại đoàn kết dân tộc” và từ đó “khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước” như Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng đã đề ra, đưa Việt Nam thoát khỏi vị thế tụt hậu, vượt qua những thách thức và khó khăn nhiều mặt trong đời sống kinh tế-xã hội hiện nay, để vươn lên “cất cánh”, để ước vọng nước non sum họp một nhà của Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm thành hiện thực thuyết phục nhất.