Dân SinhIn bài này (Ctrl + P)

Tuổi “song thất” nghĩ lúc mình… 0 tuổi

Cuối năm ngoái, cán bộ phường đến bảo tôi làm tờ khai “Phiếu thu nhập thông tin dân cư” theo chỉ thị của Bộ Công an để chuẩn bị làm Thẻ định danh căn cước (nghe nói sẽ thay thế sổ hộ khẩu và chứng minh nhân dân). Thế là lại thêm một lần “đối diện” với quê quán, ngày sinh tháng đẻ và thêm một lần tự nhắc: “Té ra mình già thật rồi!”. Thì rõ, sinh năm 1939, lúc viết tờ khai đã là ông lão 76 tuổi chứ còn trẻ trung gì nữa…

 

Đò dọc trên sông Phố.

Tuy vậy, vẫn thích “cưa sừng làm nghé”, tính thêm “tuổi mụ” để được 77 tuổi, rồi biến hóa thành “song thất”, tức 27 tuổi! Đó là nói vui, chứ việc cộng thêm “tuổi mụ” cũng có cái lý của nó.

 Gần đây, tôi mới biết trong kinh Phật đã nêu vấn đề “thai giáo” - tức là sự giáo dưỡng đứa con phải chú trọng từ lúc nó còn trong bào thai. Dân gian gọi đó là “tuổi mụ”, hoặc có thể nói gọn lúc đó là 0 tuổi! Vậy mà trong mọi bản khai lý lịch, tôi đã “giấu” đoạn đời đó! Nay tôi xin thử khai “bổ sung” “quãng đời”… 0 tuổi ấy để độc giả đọc cho … vui; cũng là dịp để nghiệm xem dấu ấn quãng thời gian “9 tháng 10 ngày” đó ảnh hưởng đến cuộc đời mình như thế nào…

Tôi sinh tại Huế, tuy quê ở bên dòng sông Phố (Hương Sơn). Thời kỳ đó, bố tôi làm việc ở Huế, mẹ tôi thường ở quê, thỉnh thoảng mới vào thăm bố, nên không biết “các cụ” gặp nhau ở Huế hay Hương Sơn lúc tạo nên hình tướng đầu tiên cái thằng cu Phê này. Có điều chắc là hơn 9 tháng trong bụng mẹ, tôi đã được lên tàu hỏa “du lịch” trên chặng đường Huế - Vinh không chỉ một lần. “Hỏa xa” hồi ấy còn chia hạng 1,2,3 và được kéo bởi đầu máy chạy bằng than, vì thế mới gọi là “tàu hỏa” hay “xe lửa”. Và những ngày ở Huế,  tôi chắc cũng được du ngoạn trên sông Hương hay các cảnh đẹp như đồi Vọng Cảnh, điện Hòn Chén, vịnh Lăng Cô hay Bạch Mã…

Tác giả thời TNXP.

Bây giờ, sống ở Huế, mỗi khi vào ra cửa Thượng Tứ hay đi qua hồ Tịnh Tâm, tôi chợt tưởng lại hồi mình còn bé bằng… củ khoai lang nằm trong bụng của mẹ, đã được thăm thú núi Ngự sông Hương thơ mộng, được “ăn” cá tôm nước lợ phá Tam  Giang, được “hít thở” trong bầu không gian văn hoá đặc sắc của Huế, không biết đó có phải là “cơ duyên” may mắn của mình?

Sau những ngày ở Huế như thế, mẹ lại “mang” tôi lên tàu ra Vinh, rồi ngược sông Ngàn Phố trên chuyến đò dọc về quê Hương Sơn. Thời đó, đi đò vừa tốn ít tiền, vừa là dịp ngao du sơn thủy. Trong lòng chiếc đò rộng khoảng vài mét, những chiếc chiếu trải ngang trên sạp bằng gỗ láng bóng, già trẻ, giàu nghèo, cô buôn chuyến, bác nông phu, trai thanh, gái lịch… “sát cánh” bên nhau như một gia đình lớn. Mo cơm mở ra cùng ăn, hộp trầu, quả cau chia sẻ; râm ran đủ thứ chuyện trên đời.

Thời đó, đò chưa gắn máy, không có tiếng máy nổ ình ình nhói tai, chuyện vui, buồn cũng chia sẻ với bạn đồng hành như mo cơm, điếu thuốc. Những chuyến đò dọc dù lịch trình dài hàng chục cây số, đều di chuyển bằng chèo khi xuôi dòng, may thuận gió thì có thêm cánh buồm nâu giúp sức; lúc ngược nước thì nhờ những cây sào chống - thường dùng cây mạy, còn gọi là “cán giáo”, một loại tre thân đặc, nhỏ, rất dẻo dai, khi đò nặng, nước rặc, đầu sào tì nặng, lún sâu vào những chiếc vai trần bóng nhẫy mồ hôi khiến cây sào uốn cong như cánh cung khổng lồ mà không gãy. Gặp chỗ sông cạn thì có khi cả hành khách cũng cởi áo, vận quần cộc, nhảy xuống nước hò dô góp sức đẩy đò lên.

Đò trên sông Hương.        (Ảnh NST)

Vất vả và có phần nhếch nhác, nhưng mà vui. Ở trên đò là thỏa sức vốc nước sông trong mát rửa ráy, mặc dù cũng có anh chàng liều tranh thủ “tè” lúc quần cộc ướt át sẽ không bị lộ tẩy; nếu có chị em nào hăng hái cùng nhảy xuống thì càng vui, mắt tròn mắt dẹt ngó liếc, rồi rì rầm bình phẩm… Qua chỗ cạn là hô nhau bám thành đò trèo lên. Vào lúc chiều nhạt nắng thì trai trẻ lên mui thuyền - một mái vòm êm ái được đan bằng cật tre và ép lên lớp lá kè (còn gọi là lá cọ) - vừa ngắm cảnh đôi bờ như một cuốn phim quay chậm, vừa hong khô quần áo. Đêm đến, hết ngắm trăng thì xuống lòng đò, nam nữ phân chia hai phía, nằm trên sạp kiểu như cá xếp trong thúng. Khi chiếc đèn “Hoa Kỳ” hết dầu, hành khách hết chuyện để bàn luận là có thể nghe rõ tiếng sóng vỗ mạn đò lóc bóc, cùng tiếng mái chèo kẽo kẹt và tiếng những cây sào rần rật cọ vào sườn đò hai bên. Cái “vòm” không gian bình yên và ấm cúng ấy thỉnh thoảng cũng bị “quấy rối” bởi một ai đó nói “mớ” trong mơ, hay con trẻ thức giấc khóc nhè đòi vú mẹ; thậm chí, có kẻ còn cố ý… gác chân, lật tay lấn sang phía khác giới khiến đối phương giật thột kêu lên như bị kẻ trộm móc túi. Cho dù vậy, kết cục vẫn là những tràng cười xoe xóe, rinh rích, hì hì đủ kiểu, đến là vui!.... 

Tất nhiên, cảnh tượng ở trên mãi về sau tôi mới thấy tận mắt, nhưng chắc là nằm trong bào thai của mẹ, nhiều lần xuôi ngược dọc sông Phố trong mát và có thể cả trên sông Giăng quê hương mẹ ở thượng nguồn sông Lam nữa - những nguồn mạch nuôi sống đất đai và con người thuở ấy có lẽ chưa hề bị đầu độc bởi thuốc trừ sâu và đủ loại hóa chất khác - tôi cũng “cảm” được sự bồng bềnh nổi trôi thích thú trên những chiếc đò dọc một thời đã xa, cùng hương vị thơm ngon của bát chè đậu ván, chè sen Tịnh Tâm, khi được cùng bố mẹ đi nghe ca Huế trên đò sông Hương ngày xưa…     

Ngay cả những tháng ngày mẹ tôi ở tại quê nhà bình yên thì tôi cũng năng động “ngược xuôi” khác hẳn bạn bè cùng lứa, ngay từ trong bụng mẹ. Có điều đặc biệt ấy, vì tôi biết, một người siêng năng, tháo vát hết mực như mẹ tôi, thì dù bụng mang dạ chửa, ngày ngày bà vẫn trèo thang lên giàn hái trầu - nhà tôi ở quê có khu vườn trồng cây trầu không đẹp nổi tiếng, với giàn nứa kết hàng hàng ngang dọc làm choái cho trầu leo.

Có phải vì thế mà tôi trở thành một đứa bé nghịch ngợm, thường bị người lớn mắng là “lớp tớp”; những cây nhãn, cây mít trong vườn đều bị tôi “chinh phục”, khi mẹ tôi nuôi hươu, tôi không ngại những cây duối cao, trèo lên chặt cành lá về cho hươu ăn, hai lần bị rơi, may mà không chết, cũng không bị thương! (có người bảo tôi được “bà mụ” đỡ!)

Vậy đó! Thời kỳ “thai giáo” của tôi có thể tưởng tượng ra như thế. Có phải dấu ấn sự giáo dưỡng đó như là đợt tập dượt đầu tiên, chuẩn bị cho 20 năm sau, chàng kỹ thuật trẻ Nguyễn Khắc Phê sống cuộc đời di động suốt 15 năm, qua những công trường cầu đường từ Hà Đông quê lụa đến biên giới Lạng Sơn, từ miền Tây Nghệ An heo hút đến đất lửa Quảng Bình; cuối đời, được “đóng đô” ở Huế, cũng phải chuyển nhà đến 4 lượt, được giữ chức vụ rất… sang trọng là Tổng biên tập Tạp chí “Sông Hương”, nhưng chỉ “đứng” được 9 tháng! Và, có phải nhờ cái “vốn”… trời cho ấy - nói đúng hơn là ân huệ của hai vùng đất Hương Sơn - Huế, cùng với khí huyết bố mẹ ban cho - mà một chàng trai cục mịch có thể nói là “vô học” như tôi, dám nghĩ đến chuyện văn chương vào năm vừa tròn hai mươi tuổi?

Viết những dòng này tôi bỗng… “hoang mang” khi nghĩ tới hàng ngàn, hàng vạn đứa trẻ… 0 tuổi thời hiện đại này, ngày ngày phải theo mẹ trên những con đường chật cứng xe cộ, nồng nặc mùi xăng, bụi bặm; hơn thế, do người mẹ thường xuyên phải đối diện với màn hình vi tính không ngừng “bắn” ra những tia độc hại, thì không biết cái cơ thể non nớt chỉ mới bằng… củ khoai được tiếp xúc với thế giới tràn ngập sóng điện từ quá sớm, rồi có trở nên nhạy bén, thông minh hơn, có tránh được sự biến dạng hoặc thương tổn, có thể tạo nên những đứa trẻ “khuyết tật”, dù trông vẫn béo tốt ngon lành? Và tôi bỗng muốn thốt lên: “Ôi, cái thế giới hiện đại, nếu chúng ta không tìm được cách chế ngự thì không chỉ “hại… điện” mà thôi!” 

Link nội dung: https://dansinh.dantri.com.vn/dien-dan-dan-sinh/tuoi-song-that-nghi-luc-minh-0-tuoi-20160428182456000.htm