Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 được Quốc hội thông qua vào chiều 19/6 với 452/452 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành.
Thay đổi diện mạo vùng đồng bào DTTS và miền núi
Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết Phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021- 2030 (sau đây gọi tắt là Chương trình MTQG), Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến cho biết, đại biểu Quốc hội khẳng định công tác dân tộc, chính sách dân tộc thời gian qua luôn được Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp cả hệ thống chính trị quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Theo đó, làm thay đổi diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc từng bước được nâng lên.
Do vậy, ông Chiến cho biết, đại biểu Quốc hội nhất trí việc Quốc hội ban hành Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình MTQG với 2 giai đoạn, đến năm 2025 sẽ tổng kết giai đoạn I, trình Quốc hội xem xét, quyết định thực hiện Chương trình giai đoạn II (2026-2030).
Theo ông Chiến, một số ý kiến đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa Chương trình MTQG này với 02 Chương trình MTQG và các Chương trình mục tiêu hiện hành để tránh trùng lặp về đối tượng, địa bàn thụ hưởng.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, Chương trình MTQG đề xuất xây dựng mới này có mối quan hệ chặt chẽ với 02 Chương trình MTQG là Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới và Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững và 21 Chương trình mục tiêu đang thực hiện.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội đã giao Chính phủ tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và 21 Chương trình mục tiêu đang thực hiện, trên cơ sở đó xác định nội dung, đối tượng, địa bàn cụ thể, tránh trùng lặp, chồng chéo giữa các Chương trình.
"Xác định Chương trình MTQG này là chương trình cần được ưu tiên theo đúng tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội", Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội nhấn mạnh, đồng thời, nghiên cứu, vận dụng các cơ chế, chính sách phù hợp với đặc điểm, điều kiện của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của 2 Chương trình MTQG và 21 Chương trình mục tiêu đang thực hiện.Theo ông Chiến, một số ý kiến của đại biểu Quốc hội cho rằng, một số mục tiêu chưa phù hợp, chưa hợp lý, chưa được cụ thể hóa, đồng bộ hoặc còn thấp so với các mục tiêu trong Nghị quyết số 88 của Quốc hội.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát, điều chỉnh lại các mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể của Chương trình MTQG bảo đảm sự thống nhất giữa mục tiêu của Chương trình MTQG với mục tiêu của Nghị quyết 88 của Quốc hội và đã bổ sung chỉ tiêu cụ thể về số xã, thôn, bản thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn vào năm 2025 và đến năm 2030 vào dự thảo Nghị quyết.
Thu hẹp khoảng cách về mức sống vùng DTTS so với bình quân chung cả nước
Sau khi nghe báo cáo tiếp thu, giải trình về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết với tỷ lệ 100% số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành.
Nghị quyết quyết nghị việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 với những nội dung lớn: Thời gian thực hiện Chương trình là 10 năm, chia làm 2 giai đoạn (Giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025; giai đoạn II từ năm 2026 đến năm 2030).
Mục tiêu là thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi so với bình quân chung của cả nước; đến năm 2025 giảm 50% số xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; đến năm 2030 cơ bản không còn xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Nguyên tắc, giải pháp chủ yếu thực hiện Chương trình là: Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và bền vững, tập trung cho các xã, thôn, bản khó khăn nhất; giải quyết các vấn đề bức xúc, cấp bách nhất; ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo, các nhóm dân tộc thiểu số khó khăn nhất.
Bảo đảm công khai, dân chủ, phát huy quyền làm chủ và sự tham gia tích cực, chủ động của cộng đồng và người dân; phát huy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện phương châm: "Dân cần, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng lợi".
Phân cấp, trao quyền cho địa phương trong xây dựng, tổ chức thực hiện Chương trình phù hợp với điều kiện, đặc điểm, tiềm năng, thế mạnh, bản sắc văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp của các dân tộc, các vùng miền gắn với củng cố quốc phòng, an ninh...
Nghị quyết giao Chính phủ tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ: Tổ chức tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và 21 Chương trình mục tiêu đang thực hiện, trên cơ sở đó xác định nội dung, đối tượng, địa bàn cụ thể triển khai thực hiện Chương trình, tránh trùng lặp, chồng chéo giữa các chương trình.
Quyết định đầu tư Chương trình theo đúng quy định của Luật Đầu tư công; quy định cơ chế đặc thù trong tổ chức quản lý, thực hiện Chương trình phù hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ban hành tiêu chí xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù.
Trong quá trình điều hành, Chính phủ tiếp tục rà soát, cân đối, bố trí ngân sách Trung ương bổ sung cho Chương trình theo hướng tăng chi đầu tư phát triển, hỗ trợ để tăng vốn tín dụng và có giải pháp huy động hợp lý các nguồn vốn ODA, vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, vốn xã hội hóa cho Chương trình.
Nghị quyết giao HĐND và UBND cấp tỉnh xây dựng kế hoạch, bố trí ngân sách địa phương phù hợp, cùng với ngân sách Trung ương và huy động thêm các nguồn lực khác để thực hiện Chương trình. Hằng năm, UBND cấp tỉnh báo cáo HĐND cùng cấp tại kỳ họp cuối năm và Thủ tướng Chính phủ về kết quả thực hiện Chương trình.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ giám sát việc thực hiện Chương trình theo quy định tại Nghị quyết này và các văn bản pháp luật có liên quan.