Quay lại Dân trí
Dân sinh
  1. Diễn đàn Dân sinh

Căn cứ xác định người hưởng trợ cấp thờ cúng liệt sĩ

Mẹ của ông Tạ Văn Thìn (Hải Dương) kết hôn năm 1979, chưa có con chung, sau đó chồng của mẹ đi bộ đội và hy sinh, trên giấy báo tử ghi đầy đủ thông tin bố, mẹ, vợ.

 

Được sự đồng ý của gia đình nhà chồng, mẹ ông Thìn sinh 1 người con (ông Thìn) để nương tựa lúc về già. Trên giấy khai sinh, ông Thìn lấy họ mẹ, phần tên bố để trống. Gia đình nhà chồng cũng cho mẹ ông một mảnh đất nhỏ để ở, nuôi con và thờ cúng chồng. Bà nội ở với người chú, được hưởng tiền trợ cấp hàng tháng đối với mẹ liệt sĩ và tiền hương khói hàng năm.

Đến năm mẹ ông 55 tuổi được hưởng tiền trợ cấp hàng tháng theo quy định, còn tiền thờ cúng thì bà nội vẫn là người nhận. Năm 2015, bà nội ông chết, xã chuyển tiền thờ cúng cho người chú với lý do mẹ ông đã tái giá. Ông Thìn hỏi, trong trường hợp này, người chú nhận được tiền trợ cấp để thờ cúng liệt sĩ có đúng không?

Về vấn đề này, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương trả lời như sau:

Tại Khoản 1, Điều 21 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 9/4/2013 của Chính phủ quy định, “Liệt sĩ không còn người hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng thì người thờ cúng được hưởng trợ cấp thờ cúng mỗi năm một lần, mức trợ cấp 500.000 đồng”.

Theo ông Tạ Văn Thìn trình bày thì ông Thìn là con riêng của vợ liệt sĩ, trên giấy khai sinh tên bố để trống, lấy họ mẹ và hiện vợ liệt sĩ đang hưởng trợ cấp tuất liệt sĩ hàng tháng. Tuy nhiên, nội dung trình bày của ông Thìn chưa thể hiện rõ tình trạng hôn nhân thực tế của vợ liệt sĩ cũng như không thể hiện rõ vợ liệt sĩ đang hưởng trợ cấp tuất vợ liệt sĩ hay trợ cấp tuất vợ liệt sĩ lấy chồng khác.

Nếu trường hợp vợ liệt sĩ hiện đang hưởng tuất vợ liệt sĩ hàng tháng thì em của liệt sĩ hưởng trợ cấp thờ cúng liệt sĩ là không đúng theo quy định.

Nếu trường hợp vợ liệt sĩ đang hưởng trợ cấp tuất vợ liệt sĩ lấy chồng khác thì em của liệt sĩ, nếu được ủy của dòng họ hưởng trợ cấp thờ cúng liệt sĩ là đúng theo quy định.