Quay lại Dân trí
Dân Sinh
  1. Diễn đàn Dân sinh

Chuyển trọng tâm từ chính sách Dân số và Kế hoạch hóa gia đình sang Dân số và Phát triển - Yêu cầu tất yếu

 

                                                                                                           (Tranh Minh họa)

 Những thách thức của vấn đề dân số ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước

Những thách thức đó là: Mức sinh giữa các vùng còn có sự chênh lệch đáng kể. Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng và ngày càng lan rộng. Nước ta đang bước vào thời kỳ “già hóa dân số”, đứng trước nguy cơ “chưa giàu đã già”, bỏ lỡ cơ hội của “thời kỳ dân số vàng”. Vậy những thách thức nêu trên ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển bền vững của đất nước?

Thứ nhất, phân tích kết quả về mức sinh giữa các vùng có sự chênh lệch thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa mức sinh và trình độ phát triển kinh tế-xã hội giữa các vùng lãnh thổ ở nước ta. Đó là, khu vực kinh tế - xã hội nhiều khó khăn thì có mức sinh cao, có nơi rất cao. Trong khi ở một số vùng đô thị, kinh tế phát triển, mức sinh đã xuống thấp, có nơi thấp xa so với mức sinh thay thế. Ở khu vực Đông Nam Bộ, bình quân mỗi phụ nữ sinh 1,63 con, trong khi đó ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc là 2,69 con. Ở thành phố Hồ Chí Minh bình quân mỗi phụ nữ sinh 1,45 con, trong khi đó ở Lai Châu con số này là 3,1 con (theo Điều tra biến động DS-KHHGĐ 1/4/2015) Cả nước có 18 tỉnh mức sinh dưới 2,0 con, chủ yếu nằm ở các tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long và Đồng bằng Sông Hồng; có 19 tỉnh mức sinhtừ 2,5 con trở lên, chủ yếu nằm ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung. Với mức sinh có sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng như vậy thì sẽ lại càng tạo ra sự chênh lệch đáng kể về phát triển kinh tế-xã hội giữa vùng kinh tế còn chưa hoặc đang phát triển nhưng mức sinh vẫn còn cao và vùng kinh tế phát triển nhưng mức sinh lại thấp. Mức sinh cao sẽ gây khó khăn rất lớn cho việc phát triển kinh tế-xã hội tại các vùng kinh tế chưa hoặc đang phát triển. Ngược lại, tại những vùng kinh tế phát triển, mức sinh lại thấp cũng ảnh hưởng đến vấn đề phát triển kinh tế, đó là thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao.

Thứ hai, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh sẽ có những tác động tiêu cực đến các chỉ số nhân khẩu học của dân số vì tỷ số giới tính khi sinh có ý nghĩa quyết định đến tỷ số giới tính chung của dân số và qua đó ảnh hưởng đến nhiều vấn đề kinh tế - văn hóa và an sinh xã hội, đến hôn nhân và gia đình, đến trật tự xã hội, ngay cả một số ngành nghề vốn thích hợp với phụ nữ sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu lao động nữ. Mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ tạo sự khan hiếm phụ nữ trong tương lai gây thêm áp lực về kết hôn độ tuổi trẻ hơn, tảo hôn, tăng nhu cầu mại dâm buôn bán phụ nữ, bạo hành giới, đó cũng là nguy cơ mà phụ nữ và các em gái phải đối mặt.

Thứ ba, việc phải đối mặt với những thách thức trong vấn đề “già hóa dân số” đòi hỏi cơ cấu của nền kinh tế phải thích ứng nhằm đáp ứng nhu cầu của mỗi nhóm dân số; tạo ra áp lực trong việc bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) đối với người cao tuổi (NCT). Làm thế nào để thích ứng với già hóa dân số trong khi các điều kiện kinh tế-xã hội chưa được chuẩn bị tốt là một thách thức rất lớn trong việc đảm bảo thực hiện quyền được bảo đảm ASXH của mỗi công dân, chăm sóc và phát huy vai trò của NCT theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Những thách thức nêu trên của vấn đề dân số cho chúng ta thấy rõ các vấn đề dân số ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước. Chuyển trọng tâm từ chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển là yêu cầu tất yếu.

Trong những năm qua, chính sách dân số tập trung vào nội dung của chương trình kế hoạch hóa gia đình, đó là giảm mức sinh, giảm tốc độ gia tăng dân số và đã thành công. Năm 1990, tốc độ gia tăng dân số tới gần 2%/năm với số trẻ sinh ra từ 1,9-2,2 triệu/năm và chúng ta đã tập trung giải quyết để đạt mức sinh thay thế là mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1-2 con vào năm 2005. Việt Nam gần như là nước duy nhất duy trì được mức sinh thay thế 2-2,1 con trong 12 năm qua, đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Khi mức sinh đã thấp thì rất khó đưa lên; nếu tình hình này kéo dài sẽ tác động đến nhiều mặt của xã hội.

Tuyên truyền về chính sách Dân số -KHHGĐ. Ảnh: Minh họa 

Năm 2013, Trung Quốc đã phải thay đổi chính sách một con, cho phép sinh 2 con, nhưng số đăng ký chỉ đạt 3/4 dự kiến. Khi đã thực hiện thành công chương trình kế hoạch hóa gia đình mà trọng tâm là giảm mức sinh thì cần phải tập trung giải quyết các vấn đề dân số khác. Dân số là một tập hợp người, lý thuyết dân số phân tích, xem xét tập hợp người đó theo hai góc cạnh về kết quả dân số và quá trình dân số. Kết quả dân số bao gồm: quy mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân số và phân bố dân số. Quá trình dân số bao gồm quá trình sinh, chết, di dân và phát triển con người. Các kết quả dân số có liên quan và chịu sự tác động của các quá trình dân số và các quá trình phát triển kinh tế - xã hội; ngược lại, các quá trình dân số có liên quan và chịu sự tác động của các kết quả dân số và các kết quả phát triển kinh tế - xã hội. Việc tăng nhu cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống của các thành viên trong xã hội là mục tiêu, là yêu cầu đặt ra đối với mọi quốc gia và mọi nền kinh tế.

Để đạt được mục đích thì đồng thời với việc phát triển kinh tế-xã hội, cần phải điều chỉnh các xu hướng dân số, làm cho nó phù hợp với sự phát triển. Dân số phù hợp sẽ kích thích sự phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nâng cao tiềm lực của lực lượng sản xuất, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dân số phù hợp với sự phát triển là yếu tố cơ bản để giảm nghèo bền vững, giảm tình trạng thất nghiệp, sử dụng ngày công lao động thấp, giảm suy dinh dưỡng, giảm tỷ lệ mù chữ, nâng cao trình độ học vấn, nâng cao vị thế của người phụ nữ, giảm rủi ro về môi trường, mở rộng dịch y tế và xã hội, huy động được nguồn lực để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh, khoa học và công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội. Giữa dân số và phát triển có mối quan hệ khăng khít với nhau, vừa ràng buộc nhau, hỗ trợ nhau, vừa thúc đẩy lẫn nhau.

Trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, yếu tố dân số, nguồn nhân lực luôn đóng một vai trò rất quan trọng. Muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội thì phải dựa vào một yếu tố cơ bản là nguồn nhân lực, mà nguồn nhân lực lại gắn liền với tình hình biến đổi dân số. Mặt khác, mục đích cuối cùng của chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội không ngoài việc nâng cao chất lượng dân số và chất lượng cuộc sống của họ. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được với một quy mô, tốc độ tăng trưởng và sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực nhất định.

Chuyển trọng tâm từ chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển 

Chỉ nói riêng về kinh tế - xã hội thì dân số là bài toán tổng thể, "bài toán mẹ" của tất cả các bài toán chi tiết, của tất cả "bài toán con". Dân số là bài toán của cơ sở hạ tầng, của nhà ở, đường sá giao thông; của an ninh lương thực, thực phẩm; của giáo dục, đào tạo; của y tế, khám bệnh, chữa bệnh; của lao động, việc làm; của môi trường, nước sạch nông thôn, miền núi. Dân số là bài toán của giảm nghèo; bài toán của an sinh xã hội, trợ giúp xã hội... Một ví dụ cụ thể từ thành tựu của "bài toán mẹ" cho thấy dân số có tác động như thế nào đến sự phát triển bền vững của đất nước. Nếu số con trung bình của một phụ nữ có chồng ở giai đoạn 1969-1974 là 6,1 con, thì đến nay có thể nói mục tiêu mỗi cặp vợ chồng bình quân có 2 con đã đạt được. Cũng vì thế, quy mô dân số nước ta vào tháng 5/2011, chỉ là 87,3 triệu người thay vì 104,4 triệu người vào năm 2010 nếu không thực hiện tốt công tác dân số. Và nếu với dân số 104,4 triệu người, giả sử quy mô nền kinh tế - tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vẫn đạt 101,6 tỷ USD thì GDP bình quân đầu người chỉ là 973 USD chứ không phải 1.168 USD như đã công bố tại Đại hội Đảng lần thứ XI. Nếu vậy thì nước ta vẫn nằm trong tốp các nước kém phát triển, thu nhập thấp. Nhưng nhờ nỗ lực, chúng ta đã đạt được các mục tiêu dân số nói chung và khống chế được quy mô dân số nói riêng nên Việt Nam đã bước lên một "đẳng cấp mới", gia nhập nhóm các nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Chỉ một chỉ tiêu này thôi đã cho chúng ta thấy ý nghĩa cực kỳ lớn lao của công tác dân số đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Điều quan trọng nhất trong mối quan hệ giữa dân số và phát triển là việc đặt chúng trong mối quan tâm chung, trong chiến lược và những chính sách chung.

Những mục tiêu và chính sách chung đó có nhiều nhưng nổi bật nhất là những vấn đề cơ bản sau:

1) Kế hoạch hóa gia đình và xây dựng quy mô gia đình hợp lý;

2) Dân số với phát triển kinh tế bền vững;

3) Dân số với bảo đảm sự phát triển và công bằng xã hội;

4) Dân số với việc bảo vệ môi trường:

5) Dân số với quá trình đô thị hóa.

Vì vậy, trọng tâm chính sách dân số và phát triển trong trong tình hình mới đó là: Tập trung giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề dân số, duy trì mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên ; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng , thích ứng với già hóa dân số, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dân số, đô thị hóa, công nghiệp hóa, quản lý di cư góp phần phát triển nhanh và bền vững đất nước. Việc giải quyết những vấn đề trên có ý nghĩa to lớn đối với chất lượng nguồn nhân lực để thực hiện phát triển kinh tế-xã hội.



(1)104-107 nữ/nam. Để đánh giá mức độ cân bằng giữa nam và nữ, người ta dùng chỉ tiêu “Tỷ số giới tính”, tức là số nam tương ứng với 100 nữ. Bình thường, tỷ số giới tính khi sinh ở mức 104 - 107 nam/100 nữ. Do tỷ lệ tử vong ở trẻ em trai cao hơn trẻ em gái nên đến tuổi trưởng thành, tỷ lệ nam, nữ sẽ trở nên cân bằng.


(2)Cơ cấu dân số vàng, tức là số người trong độ tuổi lao động cao hơn số người phụ thuộc, chỉ có thể kéo dài tối đa là 40 năm. Cơ cấu “dân số vàng” đồng nghĩa với sự tập trung của một lực lượng lao động trẻ hùng hậu chưa từng có. Về lý thuyết, một khi lực lượng này được tận dụng tối đa trí tuệ, sức lao động, sẽ tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ, tạo ra giá trị tích luỹ lớn cho tương lai, đảm bảo an sinh xã hội khi đất nước bước vào giai đoạn dân số già. Hàn Quốc, Nhật Bản có cuộc bứt phá thần kỳ về kinh tế, trong đó có yếu tố cơ cấu dân số vàng - thuận lợi do lực lượng lao động đem lại.

 

Nguyễn Hồng Ngọc/(Chuyên viên cao cấp Vụ Các Vấn đề xã hội - VPQH)/Tạp chí Gia đình và Trẻ em

Tin liên quan