Quay lại Dân trí
Dân sinh
  1. Diễn đàn Dân sinh

Đỗ Chu - Khoảng bình yên trong giông bão

Đỗ Chu là người viết chậm và kỹ. Anh tự biết mình là người thừa thãi sự nổi tiếng, lại nữa anh cũng không sợ bị lãng quên. Anh bảo “viết nhiều là quý, là rất quý nhưng phải hay. Viết nhiều mà không hay thì viết ít, thậm chí đừng viết nữa”. Dấu hiệu của tài năng là còn tự biết mình đến lúc nào không nên viết nữa...

 

Chân dung nhà văn Nguyễn Đình Thi do Đỗ Chu vẽ. Ảnh: Tư liệu

Đỗ Chu vào làng văn thuận hơn nhiều so với những tác giả khác cùng trang lứa. Hồi học cấp III trường Hà Thuyên (Bắc Ninh) đầu những năm 1960, Đỗ Chu đã có bài “Ao làng” in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội - không những là sự kiện và niềm mơ ước của những tác giả trẻ mà ở cái thị xã nhỏ bé yên tĩnh này ai cũng nhắc đến anh với đầy thán phục. Tôi vốn là người ham đọc sách nên cũng hăm hở tìm đọc truyện của anh. Phải thấy rằng, những truyện ngắn “Hương cỏ mật”, “Thung lũng cò”, “Chiến sĩ quân bưu”... thưở ấy của Đỗ Chu chiếm lĩnh tôi bởi chất văn ngọt ngào, sâu lắng, giàu chất thơ: “Ở giữa vườn trám có một cây gạo già, nhưng cò không bao giờ làm tổ trên cây gạo. Cành gạo thưa, gió khẽ lay là rơi mất tổ. Đứng trên đỉnh núi nhìn xuống vườn cò, giữa màu xanh rậm rì của những lùm trám, nổi bật lên màu hoa đỏ rực của gạo. Cây gạo rất đẹp, nhưng đấy là cái đẹp kiêu kì. Mùa xuân cây gạo rụng lá và ra hoa, mùa hè hoa rụng để kết quả và khi sắp sang thu thì cây gạo bắt đầu khoe bông trắng nõn. Cây gạo cứ sống cô đơn, buồn tẻ như thế giữa tiếng đùa bỡn và kháo chuyện ầm ĩ của họ nhà cò trên các ngọn trám xanh ngắt xung quanh”. Những nhân vật: Đại úy Bài, anh Khang, cô giáo Nhâm, anh Hiền, Lầm “làng tôi”... sao đẹp và ân nghĩa đến vậy! Cứ ngỡ họ sinh ra là để cho đời sống này tốt hơn lên với lòng nhân ái vị tha!

Vào năm 1966, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân tổ chức trại viết các gương điển hình trong chiến đấu chống Mỹ. Tôi biết Nguyễn Đình Ảnh, Nguyễn Trí Huân... cũng từ đấy. Đỗ Chu được giao phụ trách trại, viết về liệt sĩ Phan Đăng Cát rồi anh viết truyện ngắn “Phù sa”, làm cuốn sách cùng tên. Trước đó anh có 3 truyện đã in chung cùng hai tác giả khác: Trúc Hà - Văn Ngữ trong tập “Hương cỏ mật”. Nhìn các trang bản thảo ngoặc lên, ngoặc xuống của anh như vẽ bùa mới thấy hết sự lao động cực nhọc của nghề viết. Không biết do “ma lực” nào ốp vào anh mà Đỗ Chu viết khỏe vậy. Một anh lính trẻ, gầy nhàng nhàng, đôi mắt sáng, bàn tay lúc nào cũng ướt đẫm mồ hôi mà sức viết lại dồi dào. Có một nhà văn đã từng nói với tôi: “Đỗ Chu bức xúc thì nói ra mồm, nhưng văn hắn kỹ càng”. Nghe Đỗ Chu thì phải nghe cả hai tai. Đỗ Chu là người có tâm, nói thì đôi khi “tào lao” nhưng những điều anh nói nếu “chị nghe” thấy cũng chí lý. Nhiều năm gần đây, hiểu anh tôi cũng học hỏi được nhiều ở nghiệp văn qua các cuộc tiếp xúc trò chuyện. Đỗ Chu viết văn là hướng cho cả cuốn sách sắp in, hướng cho cả một giai đoạn anh quan tâm nên anh viết rất kỹ; khi tập hợp lại thành sách ít khi phải sửa chữa, thêm thắt. Ý thức này xuất hiện trong anh rất sớm. Đỗ Chu nói: “Làm báo là cập nhật, viết văn thì phải…dài dài. Phần lớn người viết văn bây giờ phải viết báo nên gì thì gì nhớ là khi ra sách phải có văn chương, không thì vứt...”

Anh là một nhà văn sớm thành đạt mà cũng không ít trăn trở, vật vã, day dứt, băn khoăn. Đỗ Chu không chỉ bằng lòng với những gì đã có của mình cho dù những gì đã có của anh vẫn còn là mơ ước của nhiều người khác. Tôi nhớ hồi anh về quê sống và viết, chủ yếu là viết bút kí, tùy bút... dạo ấy chúng tôi thường đùa vui đấy là những “xã luận mềm”... Gần anh, tôi hiểu anh muốn có một cái gì khác những cái đã viết. Mà nào có dễ? Và anh vẫn nghĩ, nghĩ lung là đằng khác. Đến thăm anh, lúc nào cũng thấy anh hút thuốc lào vã, nước điếu vẩy tung tóe trên nền gạch ẩm. Bản thảo thì gạch xóa chằng chịt. Thậm chí, Đỗ Chu còn vo bản thảo vừa viết đêm qua thay đóm hút thuốc. Thức khuya dậy muộn là nếp sinh hoạt của anh... Và bây giờ, Đỗ Chu “nảy nòi” vẽ nữa chứ! Phòng anh thành xưởng họa. Nào bảng màu, giá vẽ, toan, bút lông, bột màu, màu dầu... lem nhem khắp phòng. Xong đợt vẽ, anh lại múc nước giếng rửa nhà, có khi mất  hàng buổi. Các bạn Hà Nội về kêu thằng này đốc chứng mất rồi! Sự thực là Đỗ Chu vừa ném màu lên toan mà trong đầu vẫn không nguôi bức xúc với những vấn đề đang từ đời sống hiện tại. Anh thường nói với tôi một cách bình tĩnh: “Nhà văn cũng có những lúc bế tắc, không viết nổi một dòng”. Không viết được thì đi. Chính là lúc ấy anh đã lội vào những cánh đồng và những cánh rừng, sống với nhân dân, cùng mọi người lo toan bàn bạc. Anh về làng thăm đình, thăm chùa, đọc văn bia, câu đối, trò chuyện với các cụ già và trẻ thơ. Lên rừng xuống biển, vào Nam ra Bắc chán thì ra nước ngoài. Anh bảo tôi: “Cứ đi cái đã. Sống cái đã”. Tôi gật gù nghĩ, tài năng cần sự cô đơn, thì bác cứ việc tay nải gió đưa, gầm trời này cũng đủ rộng. Thời gian này tôi thấy anh lẳng lặng đọc một cách hệ thống về nhiều vấn đề, không chỉ đọc có văn học. Một hôm, anh khuân chồng sách của nhà văn Tô Hoài về nhà, sách mang dấu Thư viện Hà Nội. Tôi hỏi: “Anh định đọc hết ông ấy à?”. Anh trả lời “Phải mất hàng năm, không thể không đọc một nhà văn như ông này. Đấy là người chép sử biên niên nước nhà, kể từ thời tiền khởi nghĩa, có sức vóc “cử đỉnh” trong văn học Việt Nam thế kỷ hai mươi. Người ta hay nhắc đến những trang viết về miền núi của Tô Hoài tất nhiên là rất hay, nhưng phần chính yếu của ông là viết về Hà Nội trước và sau Cách mạng Tháng Tám. Giữa các cụ xuất chúng, ông già này cứ lầm rầm đi, lầm rầm làm việc nhưng sẽ là người về sau cùng, trên vai là một gánh sách có ý nghĩa tập đại thành”. Câu của anh nói, tôi tính ra đã là hơn mười lăm năm. Anh im lặng lúc lâu rồi lại nói: “Nhiều anh thích ầm ĩ quá, trong khi sự tự vượt mình chỉ có thể làm được trong im lặng sống và sáng tạo”.

Nhà văn Đỗ Chu thời trẻ (bên phải) và nhà lý luận phê bình Vương Trí Nhàn. Ảnh: TL 

Hóa ra, những vật vã ấy cũng không uổng phí. Với thời gian, văn Đỗ Chu đời hơn, giản dị hơn. Những trải nghiệm đời sống cứ lan tỏa trong hầu hết các trang viết: “Buồn thay cho một kiếp người, muốn trong sạch nhưng lại quá yếu đuối. Dạo ấy ông đã nằm ở đây và ông đã nghĩ ngợi những gì, ôm ấp những gì? Khi ông nhìn con đường nhỏ nằm vắt qua núi, nhìn dòng sông đang đứng im đằng xa kia, một dòng sông già cỗi như miền đất này, nhìn xuống bãi cát nhìn ra phẳng lặng, nhìn vào bãi thông giáp làng giờ đây đang bị mưa che khuất, nhìn vào tất cả khung cảnh này, ông ngẫm nghĩ như thế nào, đắng cay như thế nào mà đủ đau buồn đến mức có thể chết như không vậy?” (Mưa tạnh). Vẫn là tiếp tục những suy ngẫm từ một tâm hồn đôn hậu. Bằng lối viết không có chuyện, cứ nhẩn nha như thế mà lặn sâu vào kiếp người, phận người: Chẳng qua đời mỗi chúng ta cũng giống như con chim gì đang nhảy nhót chấp chới trên ngọn sóng. Chỉ những ai từng lênh đênh ngoài khơi mới gặp loài chim ấy. Chẳng hiểu chúng đậu vào đâu mà sống nổi, và nhờ đâu chúng vẫn cất tiếng hót giữa trùng trùng sóng gió. Kiếp người tưởng vậy mà nào có khác nhau là bao. Tôi vẫn thấy có tiếng hát của em, tiếng gọi của chị trong mỗi ngày sống của mình” (Một loài chim trên sóng).

Sinh thời, nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói: “Đỗ Chu giống như cây quế trong rừng, ai dám bảo cây quế không quý”. Nhưng có lẽ điều đó chỉ là đặc trưng của văn Đỗ Chu thời trẻ. Những năm ấy, Đỗ Chu chưa có đủ cái sâu sắc, đau đáu trải nghiệm.

Tôi là người may mắn gần gũi anh nhiều năm qua, nếu nói anh là người lười thì vừa đúng lại vừa không đúng. Đỗ Chu là người viết chậm và kỹ. Anh tự biết mình là người thừa thãi sự nổi tiếng, lại nữa anh cũng không sợ sự bị lãng quên. Anh bảo “viết nhiều là quý, là rất quý nhưng phải hay. Viết nhiều mà không hay thì viết ít, thậm chí đừng viết nữa. Dấu hiệu của tài năng còn là do tự biết mình đến lúc nào không nên viết nữa. Biết điều thì xin vào ngồi ở một tòa soạn, một nhà xuất bản nào đó, kiếm lấy một cái ghế để yên thân”. Bây giờ sau ba tập sách “Mảnh vườn xưa hoang vắng”, “Một loài chim trên sóng” và “Tản mạn trước đèn” đã in trong hơn mười năm trở lại đây, chúng ta thấy anh là người đến với nghề văn sớm nhưng không ít vất vả, không ít vật lộn, học hỏi để có thể chuẩn bị bản lĩnh đi tới...

Gần đây, tôi đến thăm Đỗ Chu ở khu tập thể Nam Đồng có nghe anh tâm sự: “Kim này, nhờ giời anh em mình có dăm ba chữ để sống với đời. Chịu khó viết lấy ít trang cho hẳn hoi, mà cũng chớ có quá ảo tưởng về mình, không khéo mà thành vớ vẩn cả, thì khổ”. Một nhà văn đã qua tuổi sáu mươi có thành đạt trong văn chương mà còn thấy như vậy thì kể cũng đáng trọng. Ngẫm ra, khả năng tự biết mình, dám vượt mình là một phẩm chất không thể thiếu với những ai muốn đi xa...