Thầy Nguyễn Thành Công trong buổi giao lưu cùng học sinh.
Lý thuyết Sinh học không khó nhưng dễ nhầm lẫn
Theo thầy Nguyễn Thành Công (GV môn Sinh học trường THPT Chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội), lý thuyết môn Sinh học thường tập trung vào các chuyên đề Tiến hóa (khoảng 6 câu), Sinh thái học (khoảng 11 câu), Cơ sở vật chất di truyền và cơ chế di truyền (khoảng 6 – 8 câu), Tạo giống (khoảng 3 câu) và rải rác 1 đến 2 câu ở các chuyên đề còn lại.
Thời gian để hoàn thành 1 câu lý thuyết thường nhanh hơn 1 câu bài tập vì bài tập môn Sinh học khá dài, nhiều dữ kiện và khó. Vì vậy, mặc dù chiếm đến 60% đề thi nhưng học sinh chỉ nên dành 30 – 40 phút để hoàn thành chính xác số câu lý thuyết.
Thầy Công chia sẻ, không ít học sinh nàn rằng mình toàn làm sai lý thuyết trong khi bài tập thì làm không tồi. Học sinh thường có tâm lí chủ quan, coi thường câu hỏi lý thuyết và mang tâm lý “thỏa mãn” khi làm được một bài tập hơn là tìm ra đáp án của một câu lý thuyết. Lý thuyết Sinh học rất rộng, tập trung ở nhiều lĩnh vực kiến thức, từ phần rất trừu tượng, đòi hỏi cần phải có nhiều tưởng tượng của học sinh như phần di truyền phân tử và di truyền tế bào, cho đến những kiến thức mang tính chất tư duy gần đúng cho đến đúng ở phần tiến hóa và kiến thức thực tế ở phần sinh thái. Quan trọng hơn, nhiều học sinh học môn Sinh bằng cách học thuộc lòng kiến thức mà không hiểu bản chất bên trong của kiến thức nên rất dễ quên bài và trả lời sai các câu hỏi trắc nghiệm.
Bí quyết hoàn thành 30 câu lý thuyết trong 30 phút
Theo lời khuyên của thầy Nguyễn Thành Công, học sinh phải nhớ rằng phần lý thuyết dễ lấy điểm hơn phần bài tập. Do đó, các bạn khác cũng có thể lấy điểm phần này cũng dễ hơn. Để mất điểm ở những câu dễ do chủ quan và chưa đủ kiến thức “khó tha thứ” hơn nhiều so với mất điểm câu bài tập khó. Hãy nắm chắc điểm phần lý thuyết trước khi tập trung để lấy điểm câu bài tập khó.
SGK là một công cụ quan trọng bậc nhất để học phần lý thuyết, học sinh nên có cả hai cuốn SGK và SBT cơ bản và nâng cao (trong 2 cuốn sách bài tập có nguồn câu hỏi trắc nghiệm giúp học sinh nhớ kiến thức rất tốt). Học sinh cần kiên trì học lý thuyết Sinh học theo cách “mưa dầm thấm lâu”.
Bước đầu tiên, học sinh nên chia kiến thức thành các chuyên đề nhỏ: Di truyền học phân tử (ADN, ARN, Protein – cấu trúc và chức năng; Gen và mã di truyền; Các cơ chế tự sao, phiên mã, dịch mã và điều hòa biểu hiện gen); Di truyền học tế bào (Nguyên phân; giảm phân); Biến dị (Thường biến; Biến dị tổ hợp; Đột biến gen; Đột biến cấu trúc NST; Đột biến lệch bội; Đột biến đa bội); Các quy luật di truyền (Menden 1 tính trạng; 2 hay nhiều tính trạng; tương tác gen; liên kết gen; hoán vị gen; liên kết với giới tính; di truyền ngoài nhân); Di truyền quần thể; Di truyền người; Di truyền học ứng dụng và các kỹ thuật chọn/tạo giống; … Tương tự với các nội dung của Tiến hóa và Sinh thái. Việc chia nhỏ các phần kiến thức như trên giúp học sinh đỡ sợ lượng kiến thức quá nhiều.
Với mỗi phần kiến thức nhỏ kể trên, học sinh có thể tự học theo tiến trình sau: Đọc hiểu, dùng bút nhớ đánh dấu vào các từ khóa “đắt nhất”. Sau khi đọc hiểu, tự tóm tắt các nội dung chính vào vở tự học, chỗ nào chưa hiểu thì mở lại sách giáo khoa xem lại – đây là lần thứ 2 đưa kiến thức vào não bộ của mình. Sau khi đã tự ghi chép được lượng kiến thức của mình vào trong vở, học sinh tiến hành đánh giá kiến thức đó bằng việc vẽ một sơ đồ tư duy cuối bài để khái quát hóa lại kiến thức – đây là lần thứ 3 giúp ghi nhớ kiến thức.
Sau khi đã nắm chắc kiến thức, học sinh nên tự trả lời các câu hỏi trắc nghiệm trong sách bài tập, sách tham khảo, sau đó so sánh đáp án và tự chấm điểm cho mình. Kiểm tra lại những câu bị sai và tìm ra nguyên nhân sai ở đâu, sai do không nhớ kiến thức hay sai do chưa hiểu kiến thức và đọc lại vấn đề. Sau quá trình tự kiểm tra này, học sinh sẽ rút được nhiều kinh nghiệm cho quá trình làm bài thi, nhưng thế vẫn chưa đủ.
Sau mỗi nhóm kiến thức, phải liên kết chúng lại để tạo thành một hệ thống kiến thức. Chẳng hạn như di truyền học phân tử phải thấy được mối tương quan giữa cấu trúc và chức năng của ADN, ARN, gen, protein, tính trạng và sự giống nhau, khác nhau giữa quá trình tự sao, phiên mã, dịch mã và quá trình điều hòa biểu hiện gen. Những câu hỏi lý thuyết so sánh/phân biệt đòi hỏi nắm chắc các mối liên hệ như trên.
Ngoài ra, khi ôn tập, học sinh nên thường xuyên sử dụng sơ đồ tư duy, vẽ hình minh họa, lập bảng so sánh, phân biệt những kiến thức dễ nhầm lẫn.
Luyện đề là một bước vô cùng quan trọng để em có thể tự đánh giá được “vị trí kiến thức” của mình. Trong quá trình làm đề, cần tuân thủ áp lực thời gian để làm quen dần với kỳ thi. Rút kinh nghiệm những câu mình sai, kiểm tra lại nội dung kiến thức mà mình bỏ lỡ và bổ sung kịp thời.
Khi luyện đề cũng như khi vào phòng thi, học sinh nên làm bài theo trật tự từ dễ đến khó. Đề thi tử năm 2015 trở đi được sắp xếp tương đối theo trật tự này, hầu hết các câu hỏi lý thuyết đều nằm ở phần đầu đề thi. Nên dành 30 – 40 phút đề hoàn thành hết lý thuyết trước khi chuyển sang bài tập.
Nếu đặt mục tiêu thi đỗ nhóm trường Y thì học sinh không được phép lơ là phần lý thuyết vì nếu chỉ cần sai 2 đến 3 câu lý thuyết thì gần như cơ hội đầu quân nhóm trường này là rất mong manh.