Đây là mục tiêu quan trọng của dự án "Không để ai bị bỏ lại phía sau: Các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm giảm tình trạng tử vong mẹ tại các vùng dân tộc thiểu số tại Việt Nam" của UNFPA. Dự án được ký kết ngày 24/9 giữa bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam, bà Jennifer Cox, Tổng Giám đốc của Merck Sharp & Dohme – MSD HH tại Việt Nam - công ty dược phẩm sinh học hàng đầu thế giới và TS. Mary-Ann Etiebet, đại diện Qũy MSD cho các bà mẹ (MSD for Mothers).

Bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam phát biểu tại sự kiện.
Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc cải thiện sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục của người dân trong vòng 20 năm qua và là 1 trong 6 quốc gia duy nhất trên thế giới đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 5 (MDG5) về giảm tình trạng tử vong mẹ vào năm 2015. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại sự chênh lệch và bất bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục giữa các dân tộc và vùng miền. Các bằng chứng hiện tại cho thấy mặc dù tỷ lệ tử vong mẹ ở cấp quốc gia đã giảm xuống còn 46 ca tử vong trên 100.000 trẻ đẻ sống, nhưng tỷ lệ này vẫn ở mức cao với 100 - 150 ca tử vong trên 100.000 trẻ đẻ sống ở các vùng miền núi và vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên.
Trong số các ca tử vong mẹ tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc, phụ nữ thuộc nhóm dân tộc thiểu số dễ bị tổn thương chiếm tỷ lệ rất cao, ví dụ như phụ nữ dân tộc Hmông chiếm 60% và phụ nữ dân tộc Thái chiếm 17%. Tại khu vực này, tỷ số tử vong mẹ ở các bà mẹ là người dân tộc Hmông cao gấp 7 lần so với phụ nữ dân tộc Kinh. Hơn một nửa số ca tử vong mẹ xảy ra tại các bệnh viện tuyến huyện và tỉnh do năng lực quản lý các biến chứng thai sản của các cơ sở y tế còn hạn chế. Ngoài ra, vị trí địa lý xa xôi, khó tiếp cận, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, rào cản văn hóa và hiểu biết hạn chế về các biến chứng thai sản cũng là nguyên nhân khiến tỷ lệ tử vong mẹ gia tăng.
Phát biểu tại sự kiện, bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam cho rằng: Kể từ năm 2020 đến nay, đại dịch COVID-19 đã khiến sự bất bình đẳng vốn đã tồn tại càng trầm trọng thêm và gây ảnh hưởng đặc biệt đến các nhóm dân số dễ bị tổn thương, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái nói chung, bà mẹ mang thai vùng dân tộc thiểu số nói riêng. "Phân tích mô hình của UNFPA ước tính rằng dịch Covid-19 trong 3 tháng đầu năm 2020 có thể làm tăng tỷ lệ tử vong mẹ từ 44 - 65% trong năm 2020 tại Việt Nam. Điều này có nghĩa là Việt Nam có thêm 298 - 443 bà mẹ tử vong do mang thai và sinh con trong 1 năm. UNFPA rất quan ngại về vấn đề này vì nó sẽ đảo ngược những thành tựu phát triển mà Việt Nam đã đạt được trong nhiều thập kỷ qua trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục" - bà Naomi Kitahara bày tỏ.
Dự án do MSD for Mothers và MSD Việt Nam tài trợ với số tiền 1,2 triệu USD là một trong những sáng kiến quan trọng nhất nhằm giảm tình trạng tử vong mẹ vùng dân tộc thiểu số tại 6 tỉnh thuộc khu vực trung du và miền núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên thông qua các can thiệp đổi mới sáng tạo, chú trọng vào những nhu cầu đặc biệt của phụ nữ dân tộc thiểu số, đây là những đối tượng có nguy cơ bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển bền vững của đất nước.
UNFPA sẽ phối hợp thực hiện dự án với Bộ Y tế, Sở Y tế 6 tỉnh dự án và các tổ chức xã hội dân sự trong nước từ 1/9/2021 đến 30/9/2024. Ngoài đóng góp tài chính từ MSD for Mothers và MSD Việt Nam, UNFPA cam kết tài trợ riêng cho dự án với số tiền 810.000 USD, nâng tổng số tiền tài trợ lên 2.010.000 USD.
Mục tiêu của dự án nhằm tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục toàn diện, có chất lượng và tự nguyện cho đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao năng lực quản lý cấp cứu sản khoa ở các khu vực miền núi; và xây dựng mạng lưới cô đỡ thôn bản ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Dự án cũng sẽ lồng ghép biện pháp phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh COVID-19 vào chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục hiện có. Trong bối cảnh chuyển đổi kỹ thuật số, các can thiệp đổi mới sáng tạo cũng bao gồm các can thiệp chăm sóc sức khỏe từ xa, trong đó có các ứng dụng điện thoại thông minh sử dụng internet để cải thiện việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục ở các vùng dân tộc thiểu số. Dự án cũng sẽ thực hiện giáo dục sức khỏe theo hướng đổi mới sáng tạo và huy động sự tham gia của cộng đồng nhằm thúc đẩy việc sinh con an toàn trong cộng đồng dân tộc thiểu số.
Bà Naomi Kitahara cho rằng, việc ký kết khởi động Dự án do MSD for Mothers và MSD Việt Nam tài trợ là một bước tiến đánh dấu công tác hỗ trợ của UNFPA cho phụ nữ và trẻ em gái, đặc biệt là những đối tượng ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tại Việt Nam.
Bà Naomi chia sẻ: "Việc ký kết khởi động Dự án ngày hôm nay thể hiện cam kết của UNFPA trong việc tiếp tục hỗ trợ Chính phủ Việt Nam đảm bảo quyền và sự lựa chọn cho tất cả mọi người, đồng thời đảm bảo cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục có chất lượng để ngăn chặn tình trạng tử vong mẹ, góp phần vào nỗ lực đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam vào năm 2030".

Sự hạn chế trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe khiến tình trạng tử vong bà mẹ vùng dân tộc
thiểu số cao hơn.
Trong khi đó, bà Jennifer Cox, Tổng Giám đốc của MSD HH tại Việt Nam chia sẻ: "Chúng tôi tự hào được hợp tác với Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA - đối tác lâu năm để khởi động chương trình MSD cho các bà mẹ "Không để ai bị bỏ lại phía sau", đầu tư vào các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm giảm tử vong mẹ ở các vùng dân tộc thiểu số tại Việt Nam, hướng tới đạt được các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Chúng tôi tin rằng dự án này sẽ mang lại những lợi ích thiết thực cho phụ nữ Việt Nam và tạo nền tảng để phát triển cộng đồng và xã hội cho các thế hệ mai sau.."
Ông Nguyễn Đức Vinh, Vụ trưởng Vụ Chăm sóc Sức khỏe Bà mẹ Trẻ em, (Bộ Y tế) khẳng định sự ủng hộ của Bộ Y tế đối với dự án. Ông cũng cho biết: "Cải thiện tình trạng sức khỏe của những đối tượng bị bỏ lại phía sau, bao gồm cả người dân tộc thiểu số là trọng tâm trong chương trình nghị sự về phát triển của Chính phủ. Những bài học kinh nghiệm và thực hành tốt nhất rút ra từ sáng kiến này sẽ giúp Bộ Y tế triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia về sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em giai đoạn 2021 - 2025 với tầm nhìn đến năm 2030, nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững về chăm sóc sức khỏe".