Kiểm tra các chính sách, dự án giảm nghèo tại huyện Tràng Định
Để thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo, nâng cao đời sống người dân, huyện Tràng Định đã ban hành nhiều văn bản quan trọng chỉ đạo thực hiện. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành Chương trình thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TU ngày 02/8/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2016-2020. UBND huyện đã ban hành kế hoạch về thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2017-2020. Hàng năm đều xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình giảm nghèo, kiện toàn Ban chỉ đạo giảm nghèo, phân công các thành viên theo dõi, đôn đốc phụ trách địa bàn xã, thị trấn. UBND huyện đã ban hành Kế hoạch kiểm tra, giám sát; ngoài ra còn chỉ đạo các phòng chuyên môn liên quan xây dựng kế hoạch kiểm tra riêng nhằm phát hiện những yếu kém, vướng mắc để đôn đốc, hướng dẫn, tháo gỡ cho các xã trong triển khai thực hiện; Bình quân hàng năm thành lập đoàn kiểm tra trực tiếp 7-10 xã về triển khai thực hiện các chính sách, tập trung chủ yếu kiểm tra các xã có tiến độ triển khai chậm hoặc có vướng mắc, ngoài ra các phòng, ban ngành còn tổ chức kiểm tra giám sát riêng theo nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực chuyên môn.
Thực hiện các chính sách giảm nghèo, trong 3 năm (2016-2018), huyện đã cho vay theo Quyết định số 78/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo được 1.970 lượt hộ, với doanh số 84.775 triệu đồng; triển khai lồng ghép các chính sách hỗ trợ giáo dục cho con em thuộc hộ nghèo như chính sách hỗ trợ gạo cho học sinh nghèo bán trú, hỗ trợ học sinh trung học phổ thông, chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập. Trong 3 năm 2016-2018, toàn huyện đã hỗ trợ học phí, chi phí học tập và miễn giảm học phí cho 15.543 em với kinh phí hơn 5.314 triệu đồng; cấp 1.092,455 tấn gạo cho 8.091 học sinh theo chính sách hỗ trợ học sinh nghèo bán trú, học sinh nghèo phổ thông trung học, góp phần xóa bỏ tình trạng học sinh phải bỏ học để phụ giúp gia đình, nâng cao chất lượng học tập ở khu vực có điều kiện kinh tế -xã hội đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, huyện đã cấp được trên 3.985 lượt thẻ BHYT cho người nghèo. Đối với chính sách hỗ trợ nhà ở, từ năm 2016-2018, huyện Tràng Định được phân bổ nguồn vốn là 2.100 triệu đồng, lũy kế số đã thực hiện cho vay là 1.975 triệu đồng cho 84 hộ nghèo để xây mới và cải tạo nhà ở, trong đó xây mới 83 hộ, sửa chữa 01 hộ. Ngoài ra, huyện hỗ trợ nhà ở từ nguồn Quỹ vì người nghèo các cấp và các nguồn khác để xây dựng nhà Đại đoàn kết cho 5 hộ, sửa chữa nhà ở cho 03 hộ. Hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo, tổ chức tiếp nhận và cấp phát kịp thời 134,565 tấn gạo cứu đói giáp hạt cho trên 670 lượt hộ với trên 2.500 lượt nhân khẩu.
Thực hiện Quyết định số 1722/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, huyện Tràng Định đã triển khai các dự án Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn; Hỗ trợ phát triển sản xuất đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo. Từ nguồn vốn Chương trình 135, năm 2019 huyện đã triển khai hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn, biên giới, các thôn đặc biệt khó khăn; hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế cho 13 xã đặc biệt khó khăn và xã biên giới, 7 xã khu vực II có thôn đặc biệt khó khăn. Trong tổng số 13 mô hình phát triển sản xuất thuộc 13 xã đặc biệt khó khăn hiện nay, có 06 mô hình đã giải ngân xong nguồn vốn hỗ trợ gồm: Mô hình trồng thạch đen các xã Đoàn Kết, Cao Minh, Tân Yên, Khánh Long, Vĩnh Tiến; Mô hình trồng nấm xã Tân Tiến. Có 04 mô hình giải ngân được 30% nguồn vốn hỗ trợ, gồm mô hình chăn nuôi gà ở các xã Đội Cấn, Chí Minh, Bắc Ái. Có 03 mô hình chưa giải ngân cung cấp con giống đến đối tượng là: Mô hình nuôi vịt xã Đào Viên; Mô hình nuôi gà thương phẩm xã Chí Minh; Mô hình nuôi gà, vịt xã Tân Minh.
Song song với đó, công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá được thực hiện thường xuyên theo định kỳ hoặc đột xuất. Trong 9 tháng đầu năm 2019, huyện Tràng Định đã kiểm tra giám sát được 16 cuộc/16 đơn vị, kiểm tra giám sát theo nhiều hình thức thành lập đoàn đi giám sát hoặc lồng ghép kiểm tra giữa các chính sách, dự án giảm nghèo. Kết quả cho thấy, đa số các xã đã chủ động ngay sau khi có Quyết định của UBND huyện phân bổ nguồn vốn hỗ trợ chính sách giảm nghèo, kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chính quyền huyện chỉ đạo và ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện.
Công tác tuyên truyền được chú trọng với các hình thức đa dạng, phù hợp với điều kiện thực tế như: thông qua các hội nghị tập trung của xã, các buổi họp thôn, bản; thông các hoạt động của các tổ chức đoàn thể; tuyên truyền qua tờ rơi, tờ gấp, trên hệ thống Báo, Đài phát thanh - Truyền hình tỉnh, huyện; thông qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, công tác khuyến nông, khuyến lâm, truyền thông trực tiếp thông qua việc thực hiện các hợp phần của chương trình đối với người thụ hưởng, người thực hiện và người quản lý; treo pa nô, áp phích, phát tờ rơi tại các địa điểm công cộng.
Hộ nghèo được hỗ trợ phát triển sản xuất đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo.
Qua đánh giá của huyện Tràng Định, Chương trình MTQG giảm nghèo thời gian qua đã tác động mạnh mẽ, thúc đẩy kinh tế phát triển vùng dân tộc thiểu số miền núi, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo hàng năm trên địa bàn huyện. Các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, các thôn bản đặc biệt khó khăn từng bước thay đổi. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 20,04%; Từ 07 xã có tỷ lệ hộ nghèo cao từ 50% trở lên giảm còn 02 xã (Tân Yên 63,64%; Khánh Long 62,74%). Từ 13 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 20% đến dưới 50% tăng lên 15 xã; từ 3 xã tỷ lệ hộ nghèo dưới 20% tăng lên 6 xã. Hộ nghèo, cận nghèo vẫn chủ yếu tập trung ở các xã vùng cao, biên giới, khu vực các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thu nhập của hộ nghèo được nâng lên, đời sống có nhiều thay đổi. Các hộ nghèo, hộ cận nghèo, mới thoát nghèo, phụ nữ, dân tộc thiểu số là những đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất của Chương trình. Phân cấp và trao quyền cho địa phương “xã làm chủ đầu tư” phát huy nội lực cộng đồng, thu hút sự tham gia đóng góp của cộng đồng và người dân trong thực hiện chương trình. Các chương trình, chính sách giảm nghèo đã tác động mạnh đến đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã Chương trình 135, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất Chương trình 135 và chính sách hỗ trợ đặc thù theo quyết định của UBND tỉnh; chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn đã giúp các hộ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển sản xuất, giao lưu trao đổi hàng hóa, ngày càng tiếp cận với nhiều dịch vụ xã hội. Hộ nghèo, hộ cận nghèo từng bước giảm dần thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản theo tiêu chí hộ nghèo đa chiều, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo, có thu nhập ổn định.
Bên cạnh kết quả đạt được, việc triển khai Chương trình MTQG giảm nghèo trên địa bàn huyện đã gặp một số khó khăn như: Các công trình thuộc nguồn vốn Chương trình 135 không có chi phí đền bù giải phóng mặt bằng nên rất khó khăn trong công tác triển khai, vì vậy một số công trình dự án còn chậm tiến độ so với kế hoạch. Do điều kiện tự nhiên, hạ tầng cơ sở các xã 135 còn gặp nhiều khó khăn; trình độ dân trí thấp nhận thức của người dân chưa đồng đều, tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa có ý chí vươn lên thoát nghèo, làm ảnh hưởng đến hiệu quả chính sách đầu tư. Các văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình chưa kịp thời. Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất chưa gắn liền việc hỗ trợ phát triển sản xuất với đổi mới hình thức sản xuất, việc hỗ trợ sản xuất còn phân tán, dàn trải, nhỏ lẻ chưa thực hiện được mô hình phát triển sản xuất. Công tác kiểm tra giám sát chưa được thường xuyên. Ban giám sát xã phần lớn hoạt động giám sát còn hình thức, chưa kịp thời phát hiện và đề xuất tháo gỡ những khó khăn vướng mắc ở cơ sở.
Trên cơ sở đó, huyện rút ra bài học kinh nghiệm là xác định đúng thực trạng đói nghèo, đúng mục tiêu cơ bản phải giải quyết, đúng địa bàn ưu tiên là các xã nghèo nhất, thôn bản khó khăn nhất để tập trung nguồn lực đầu tư, không dàn trải. Đồng thời, phải huy động tổng hợp các nguồn lực, kể cả từ ngân sách nhà nước, tín dụng đóng góp của người dân, giúp đỡ của các tổ chức, các doanh nghiệp cho sự nghiệp xóa đói giảm nghèo trên địa bàn các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi. Đi đôi phân cấp, trao quyền, tạo sự chủ động cho cơ sở, các cấp từ trung ương đến tỉnh, huyện cần tăng cường sự kiểm tra, giám sát để hỗ trợ, phát hiện sai sót, kịp thời giúp các xã khắc phục mọi khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện. Trong tổ chức thực hiện chương trình phải đảm bảo nguyên tắc dân chủ, công khai và minh bạch.
Cùng với đó, huyện đề nghị, cần ưu tiên phân bổ về nguồn lực, nhất là việc quy định về chế độ, định mức, hỗ trợ theo kịp với biến động giá cả (hoặc có cơ chế linh hoạt theo từng vùng, miền) để đảm bảo thực hiện hoàn thành các mục tiêu của chính sách. Điều quan trọng là cần phải xóa bỏ tâm lý trông chờ, ỷ lại của người dân nghèo vào sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước để cho người dân tự chủ động vươn lên xóa đói giảm nghèo một cách bền vững. Về vốn và cơ chế huy động vốn, đề nghị Trung ương xem xét tăng mức vốn hỗ trợ cho các dự án thuộc Chương trình 135 do mức vốn hỗ trợ còn thấp, nhất là dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, vốn duy tu bảo dưỡng công trình để phát huy hiệu quả lâu dài. Cần xây dựng chính sách đặc thù cho cán bộ làm công tác dân tộc, đồng thời quan tâm củng cố kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc ở cơ sở.
Minh Nhật/GĐ&TE