Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 1/2019 đạt 22.076 triệu USD, cao hơn 2.076 triệu USD so với số ước tính, trong đó hàng dệt may cao hơn 644 triệu USD; điện thoại và linh kiện cao hơn 440 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 231 triệu USD; giày, dép cao hơn 169 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 115 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ cao hơn 81 triệu USD; sắt thép cao hơn 78 triệu USD; phương tiện vận tải và phụ tùng cao hơn 57 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Hai ước tính đạt 14,60 tỷ USD, giảm 33,9% so với tháng trước do tháng Hai có 9 ngày nghỉ Tết Nguyên đán, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 3,68 tỷ USD, giảm 47,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 10,92 tỷ USD, giảm 27,4%.
Kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng đều giảm so với tháng Một, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện giảm 23,9%; sắt thép giảm 45,8%; giày dép giảm 49,1%; dệt may giảm 51,4%; thủy sản giảm 52,8%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 59,2%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 2/2019 tăng 1,6%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 3,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 3,2%.
Một số mặt hàng xuất khẩu có giá trị tăng: Dầu thô tăng 181,4% so với cùng kỳ năm trước; hóa chất tăng 39,9%; thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 19,7%; giày dép tăng 7,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 4,8%; điện thoại và linh kiện tăng 3,1%.
Tính chung 2 tháng đầu năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 36,68 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 10,72 tỷ USD, tăng 9,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 25,96 tỷ USD (chiếm 70,8% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 4,3%.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực: Điện thoại và linh kiện đạt 6,8 tỷ USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước; hàng dệt may đạt 4,9 tỷ USD, tăng 19%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 4,2 tỷ USD, tăng 1,9%; giày dép đạt 2,7 tỷ USD, tăng 18,4%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 2,6 tỷ USD, tăng 19,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,4 tỷ USD, tăng 7,6%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,4 tỷ USD, tăng 12,7%.
Một số mặt hàng nông sản, thủy sản tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Thủy sản đạt 1,1 tỷ USD, tăng 2,3%; rau quả đạt 555 triệu USD, giảm 14,4%; cà phê đạt 500 triệu USD, giảm 26,9% (lượng giảm 19,6%); hạt điều đạt 371 triệu USD, giảm 21% (lượng giảm 2,3%); gạo đạt 335 triệu USD, giảm 17,5% (lượng giảm 4,9%); cao su đạt 278 triệu USD, tăng 1,3% (lượng tăng 16,6%); hạt tiêu đạt 92 triệu USD, giảm 20,6% (lượng tăng 7,8%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 2 tháng, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 8,1 tỷ USD, tăng 34,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 127,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 42,5%; hàng dệt may tăng 21%.
Tiếp đến là thị trường EU đạt 6,3 tỷ USD, tăng 1,2%, trong đó giày dép tăng 14,8%; hàng dệt may tăng 14,4%. Trung Quốc đạt 5,1 tỷ USD, giảm 9,3%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện giảm 19%; điện thoại và linh kiện giảm 63%. Thị trường ASEAN đạt 3,8 tỷ USD, tăng 3,5%, trong đó hàng dệt may tăng 47,1%; sắt thép tăng 20,9%.
Nhật Bản đạt 3,2 tỷ USD, tăng 17,3%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 30,5%; giày dép tăng 18,3%; hàng dệt may tăng 10,4%. Hàn Quốc đạt 3,1 tỷ USD, tăng 10,1%, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 26,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 11,4%; hàng dệt may tăng 9,3%.