Là người vùng cao, miền quê sinh ra tôi có tới trên 20 dân tộc anh em sinh sống. Mỗi dân tộc đều có những văn hóa riêng của mình gắn liền với các lễ hội. Mà hầu như các lễ hội này đều được “sinh ra”, được người ta nhớ đến và được “đánh thức” vào mỗi độ Tết đến Xuân về. Trong 20 anh em dân tộc ở quê tôi mỗi dân tộc đều có cho mình ít nhất là một, có dân tộc còn cá biệt có tới 2 lễ hội để đón Xuân, đón Tết. Ngày tôi còn bé, Tết quê tôi vui lắm! Nó không chỉ là đôi ba ngày mà có khi kéo dài đến hết cả tháng.
Lễ hội Gầu Tào (chơi núi) của người Mông chưa qua, lại đến lễ hội Lồng Tồng (xuống đồng) của người Tày, rồi Tết cúng rừng của người La Chí... đến “gõ cửa”. Xuân cứ thế mà ăm ắp, ngày cứ thế mà qua đi nhanh chóng, để các dân tộc anh em quên đi những tháng ngày mệt nhọc của một năm mà thêm bạn, thêm gắn kết. Ngày ấy, Tết có khi kéo dài đến cả 15 - 20 ngày sau mồng 1 nhưng chúng tôi cũng chẳng thấy bản làng mình bị đói đi. Vì sao ư, có thể do hưng phấn của những ngày Tết đã làm cho người ta có thêm sức lực để mà tăng lao động, tăng ngày giờ sản xuất, để mà bù vào những ngày đã “phải đi chơi” của mình.
Để mùa Xuân sau vui hơn, để có nhiều thứ mà đãi bạn bè hơn nên ai cũng muốn mình làm thêm hơn nữa. Chính ra những đợt vui Xuân, chơi lễ hội này mà người ta gặp thêm bạn. Có thêm những cơ hội cho cuộc sống của mình. Như bạn bè có thể gặp nhau để trao đổi những kinh nghiệm sản xuất, chăn nuôi, cấy trồng con gì, cây gì. Và cũng chính trong những ngày vui này mà người ta mở lòng với nhau hơn. Có thể dễ dàng chia sẻ, dễ dàng vay mượn những thứ mà ngày thường họ có thể đắn đo khi người khó mở lời.
Chẳng vậy mà ở quê tôi những ngày này còn được người ta chọn ngày tốt để mở lễ cho nuôi rẽ những con vật đáng giá trong gia đình như trâu, bò. Nuôi rẽ chính là hình thức chia sẻ của cải của người có với người không có, để cơ đỡ nhau trong lúc khốn khó. Ấy thế mà nhanh thật! Tôi xuống núi chưa đầy 20 năm, rồi quay trở về quê trong mỗi đợt Tết, lại thấy có cái gì bàng bạc, nhàn nhạt và tiêng tiếc. Tiếc nhất là những bộ váy áo truyền thống của các dân tộc mà mỗi khi thoáng gặp trên những nẻo đường Xuân có thể đoán ra họ là dân tộc nào, ở đâu xuống. Dặt một thứ trang phục rồi! Có hỏi mới biết là người ở đâu, dân tộc gì và ở bản nào đi chơi Xuân.
Nhiều lễ hội của dân tộc thiểu số hiện nay phải do cán bộ dựng lên... mới có.
Trang phục hết, con người ta hình như còn kiệm lời cả với nhau. Hồi xưa, lại là cái ngày cách đây mười mấy năm thôi, chỉ thoáng thấy người ở sườn núi bên kia, người bên này đã cất lời hỏi thăm vang vọng. Bắt chuyện và trả lời nhanh nhảu hệt như người nhà. Thấy ở gần có thể với chào nhau hớp nước, điếu thuốc lào. Còn ở xa thì không bao giờ thiếu câu mời về nhà, về bản để ăn cơm, chuyện trò và ngủ qua đêm.
Những năm ấy, nhà tôi cách chợ vài cây số nên hay được anh em các dân tộc khác chọn làm chỗ ngủ trọ qua đêm để đi chợ Tết. Vui lắm! Họ đến, chả cần hỏi, cứ như nhà mình, tìm chỗ quanh hiên mà ngủ. Tối đến, nhà tôi nấu cơm, bưng nồi và thức ăn ra cái sân mịn mát đất đồi. Rồi những người đi chợ trọ cũng đem cơm và thức ăn ra. Góp lại thế là thành bữa lớn, có tới vài dân tộc cùng ngồi. Qua những lần này, chúng tôi đã có thêm bạn, biết thêm phong tục tập quán. Để rồi được người rộng đất cho mượn thêm mảnh nương, người có trâu, bò cho mượn thêm sức kéo. Nhà tôi nhờ vậy cũng bớt đói ăn hơn trong những sự cưu mang, cho nhận và đoàn kết này.
Xuân là ngày thanh niên nam nữ đến tuổi đi tìm nhau. Tết này về, thấy thằng cháu vỡ giọng cách đây đã cả chục năm, râu ria lồm xồm ngồi so ro với chiếc ti vi nhiều kênh mà tôi oải vô cùng. Hỏi nó không vào Khuổi Khai, một bản sinh ra rất lắm con gái đẹp ở quê tôi để chơi à thì nó không nói. Hỏi mãi nó mới bảo là “ngăn sông cấm chợ rồi”. Vào đấy bây giờ trai bản có mà chặn đường… đánh cho bằng chết.
Rồi nó đem chuyện thằng Đ., thằng T., năm trước mạo hiểm mò vào đấy chơi Tết đã bị thanh niên bản vứt cả xe máy xuống suối. Bắt mặc quần đùi về nhà… À, là ra thế! Kể cũng lại nhanh, lại hơn chục năm trước ở nhà, biết gái Khuổi Khai đẹp chúng tôi cũng hay vào. Nể bạn Kinh nên nhiều chàng trai người Tày ở đây còn giúp chúng tôi “xâm nhập” vào những ngôi nhà sàn cao vống, ở đó có những cô gái đẹp. Về Tết, thấy xuân mai một, tôi cũng rắp tâm đi tìm ít ảnh để lưu trữ, kẻo sợ sau này không có mà dùng. Hỏi thằng em về các lễ hội, uốn éo mãi nó bảo huyện mình mấy năm nay chả tổ chức cái gì. Nếu bác cần, để em “tét” mấy huyện kề cận xem có nơi nào tổ chức em sẽ bảo bác. Mấy ngày chờ đợi, niềm vui chập chờn đến với tôi khi nó thông tin ở Nà Ngoi sẽ tổ chức lễ hội Lồng Tồng cho dân… “chơi Tết”. Đối với người Tày, trước đây Lồng Tồng là lễ hội hết sức phổ biến sao lại phải tổ chức? Tôi hỏi nó, nó dễ dãi: Bác hỏi em, em biết hỏi ai!
Thậm chí lễ hội Kéo vợ của người Mông giờ cũng đã được hiện đại hóa bằng xe máy!
Để có những ảnh đẹp vào những giờ khắc linh thiêng, tôi tìm đến Nà Ngoi từ chiều trước. Hỏi han, làm quen mãi tôi mới có bạn, mới có người mời về nhà. Đêm, bên chiếc nhà sàn đã được bê tông hóa cột kèo tôi lấy chuyện lễ hội ra hỏi chủ nhà. Ông chủ nhà buồn buồn với thứ men rượu mua ngoài phố bảo: Năm nay huyện chọn bản Nà Ngoi tổ chức lễ hội Lồng Tồng vì huyện vừa có người được tỉnh đưa lên làm lãnh đạo. Tổ chức để bác ấy vui lòng, tiện thể đón ít bạn trên ấy về nhà chơi ấy mà!
Những gì không thuộc dân, không do dân thức tỉnh để làm lấy đều có biên độ ngắn ngủi cả. Sáng, nam thanh nữ tú Nà Ngoi đâu như chỉ có đôi chục người bận quần áo dân tộc mình ra chiếc sân hợp tác xã nay đã được “chuyển thể” sang nhà văn hóa đứng chờ. Người già trong bản không được phát hiệu lệnh nữa mà công việc này đã được “nhường” cho anh cán bộ và chiếc điện thoại di động.
Đoàn xe biển xanh chở khách vào, có “mật báo”, anh “ra lệnh”, thế là tung hô, thế là cười cợt. Không khí tự nhiên cũng chẳng còn, ai cũng nem nép, câu nệ. Sau bài phát biểu của một lãnh đạo qua chiếc loa thời thượng được đem từ huyện vào là màn lễ hội. Các bác lãnh đạo chào tạm biệt ra đi thì lễ hội dường như cũng kết thúc. Lễ hội còn không dài bằng bài phát biểu của bác lãnh đạo tiền thân là cán bộ huyện nhà.
Thằng em tôi làm ở thị trấn những ngày Tết chỉ thấy ở nhà. Lại gác chân ngày 3 bữa, lấy ti vi “làm bạn”. Hỏi, không kiếm cái gì để tổ chức cho dân à? Nó bảo, bây giờ muốn tổ chức phải có tiền đầu tư. Kinh phí ngày càng ngặt nên chả biết lấy gì để làm. Tiền có hạn nên mỗi năm tỉnh, huyện chọn một điểm để làm thôi.
Nó chẹp miệng, huyện mình năm ngoái được cấp kinh phí tổ chức rồi nên nếu muốn có hội, có hè cũng phải chờ đến vài năm nữa. Năm trước đấy, chúng em bạo lên một tý thế là nợ. Đủ thứ đều phải có tiền. Ngay cả trang phục thôi. Bây giờ muốn có đôi chục bộ để đám thanh niên họ mặc cho đúng cũng phải lùng sục vài bản mới có đủ. Nhiều khi còn phải đi thuê đấy bác ạ.
Cuốc điện thoại đầu Xuân trên miền cố hương do cậu bạn đồng nghiệp dưới phố gọi. Cậu ta nhắc đến lễ hội vào cuối tháng 3 ở quê tôi. Một lễ hội độc nhất vô nhị. Tôi cấn cá, lưỡng lự và để lại một lời hứa. Vì tôi sợ nếu nhận lời đưa đi thật thì cậu bạn ấy lại có những thất vọng như tôi. Còn gì nữa đâu bạn ơi khi người ta đã can thiệp quá thô bạo vào nó. Xưa chỉ có chân trần mà tìm vào lễ hội thì nó còn linh thiêng và nó còn hấp dẫn. Nay, để có cái gọi là thu hút du lịch, để có nguồn thu họ đã xẻ đá, xẻ núi mà mở đường, rải nhựa vào đến nơi rồi.
Xe cộ bon bon, theo sự bon bon ấy là những thứ lung tung tìm vào. Cách đây vài năm, cũng do cái sự thuận này mà một cô ca sỹ dưới Hà Nội đã nổi đóa đưa cả đoàn bạn bè vào đây. Rồi sân khấu, rồi nhạc công suất lớn, rồi quần áo thiếu vải mà “hít”, “hốp”. Làm dân lành các dân tộc đi phiên chợ ấy sợ mãi đã được các báo “bưng” về tận Thủ đô để phản ánh!