Nguy cơ chồng chất với người vừa béo phì, vừa tiểu đường
TS.BS Lê Thị Việt Hà, Trưởng khoa Bệnh lý Tuyến giáp, Bệnh viện Nội tiết Trung ương: Béo phì là tình trạng tăng trọng lượng cơ thể mạn tính do tăng khối lượng mỡ quá mức và không bình thường, liên quan đến dinh dưỡng và chuyển hóa. Béo phì cũng là yếu tố nguy cơ gây ra nhiều bệnh về rối loạn chuyển hóa, đặc biệt là các bệnh đái tháo đường (type 2), tăng huyết áp, bệnh tim mạch, sỏi mật, ung thư đường tiêu hóa… Ngoài ra, béo phì cũng là một trong những nguyên nhân của các bệnh lý khác như: Đau lưng, viêm, thoái khớp, suy giảm khả năng tình dục, bệnh lý tâm thần…
Ngày nay, tình trạng béo phì tǎng lên với tốc độ báo động, không những ở các quốc gia phát triển mà còn ở các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Béo phì đang trở thành nỗi lo chung của nhiều người.
Theo đánh giá của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), doanh nhân là nhóm đối tượng có nguy cơ cao đối với một số bệnh tăng cân (béo phì), tăng huyết áp, tiểu đường, tim mạch, tâm thần (thường gặp nhất là stress và mất ngủ) – rủi ro với những người này cao hơn hẳn do đặc thù nghề nghiệp như: Áp lực công việc, thức khuya, thường xuyên tiếp khách...
Cùng với doanh nhân, những người làm công việc văn phòng, ngồi một chỗ, ít vận động cũng là nhóm dễ tăng cân và có nguy cơ béo phì cao không kém. Chính điều này cũng khiến họ phải đối mặt với nhiều bệnh mãn tính như tiểu đường và những biến chứng do bệnh này gây ra.
Các chuyên gia của Bệnh viện Nội tiết Trung ương cho biết, bệnh đái tháo đường (type 2) đang có xu hướng trẻ hóa. Thậm chí, có trường hợp mới 22 tuổi đã phải nhập viện điều trị vì mắc đái tháo đường (type 2) trên nền thể trạng béo phì, chế độ ăn giàu glucid, chất béo, ít vận động. Người mắc bệnh một thời gian dài nhưng chỉ khi có những triệu chứng xuất hiện liên tục như khát nước, uống nhiều nước, đi tiểu nhiều thì mới chịu đi khám và phát hiện ra bệnh.
TS.BS Lê Thị Việt Hà, Trưởng khoa Bệnh lý tuyến giáp, Bệnh viện Nội tiết Trung ương cũng cho rằng, tình trạng béo phì, kết hợp với một số yếu tố di truyền hoặc ngoại cảnh như stress, thức ăn có nhiều chất oxi hóa, chất bảo quản… sẽ dẫn tới đái tháo đường (type 2) với biểu hiện điển hình là tăng đường huyết, kèm theo nhiều biến chứng khác về tim mạch, gan và thận.
TS.BS. Lê Thị Việt Hà - Trưởng khoa Bệnh lý tuyến giáp, BV Nội tiết Trung ương.
Để điều tra nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 liệu có bị ảnh hưởng bởi béo phì và lối sống không lành mạnh hay không, Trung tâm nghiên cứu chuyển hóa cơ bản Novo Nordisk, Hermina Jakupovic và Đại học Copenhagen ở Đan Mạch đã tiến hành khảo sát trên 9.556 đàn ông và phụ nữ (độ tuổi trung bình là 56). Những tình nguyện viên này cũng đồng thời tham gia vào nghiên cứu về chế độ ăn uống, ung thư và sức khỏe. Kết quả, gần một nửa (49,5%) người tham gia mắc bệnh tiểu đường (type 2) trong thời gian theo dõi trung bình là 14,7 năm.
Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy, ở những người béo phì, nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường (type 2) tăng 5,8 lần so với những người có cân nặng ở mức bình thường.
Tuy những ảnh hưởng của yếu tố di truyền và lối sống không lành mạnh là không lớn nhưng nguy cơ này vẫn có khả năng làm tăng 20% nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.
Chính vì thế, theo bác sĩ Việt Hà, để phòng tránh béo phì và đái tháo đường, cũng như các biến chứng chết người do bệnh này gây ra, việc đầu tiên cần làm là cân đối nhu cầu năng lượng của cơ thể, nắm được mức năng lượng của các loại thức ăn cũng như vai trò của một số vitamin và muối khoáng cần thiết cho cơ thể.
Bị béo phì và tiểu đường nên ăn uống thế nào để tránh những biến chứng "chết người"?
Khuyến cáo của ADA 2020 về chế độ ăn, tập luyện và việc thay đổi hành vi ở bệnh nhân Đái tháo đường (type 2) có chỉ số BMI ≥ 23 ( với người châu Á và Mỹ) như sau:
Chế độ ăn uống, hoạt động thể chất và việc thay đổi hành vi cần được thiết kế để đạt được và duy trì việc giảm trên 5% cân nặng được khuyến cáo cho bệnh nhân đái tháo đường (type 2) người thừa cân hoặc béo phì. Những lợi ích với sức khỏe tim mạch và việc kiểm soát đường huyết sẽ vượt trội nếu bệnh nhân giảm được nhiều cân hơn.
Theo đó, người bị tiểu đường (type 2) và mắc bệnh béo phì cần tập trung vào thay đổi chế độ ăn uống, hoạt động thể chất và thay đổi hành vi để đạt được việc giảm 500-750 kcal/ngày. Mức tiêu thụ khuyến cáo chỉ khoảng 1200-1500kcal/ngày. Chế độ can thiệp dinh dưỡng này cần được thực hiện ở cường độ cao, đều đặn trong 6 tháng.
Theo một thử nghiệm của Look AHEAD, việc thay đổi chế độ ăn một phần kèm theo thay đổi lối sống như hoạt động thể chất trung bình 175 phút/tuần, kết hợp với cải thiện chất lượng bữa ăn cho hiệu quả duy trì việc giảm 5% cân nặng tốt hơn rất nhiều so với nhóm đối tượng có hoạt động thể chất nhưng không thay đổi chế độ ăn.
Chế độ ăn bạn nên áp dụng một ngày gồm 4 bữa là 2 bữa chính và 2 bữa phụ. Thực đơn của mỗi bữa ăn nên sử dụng thực đơn thay thế một phần vào 2/4 bữa ăn trong ngày. Thực đơn thay thế một phần là chế độ ăn được kiểm soát về mặt calo, cung cấp đầy đủ dinh dưỡng và chất khoáng vitamin, chất béo và cholesterol được kiểm soát thích hợp.
Để giảm cân 5% cân nặng trong thời gian ngắn (3 tháng) nên sử dụng chế độ ăn kiêng rất ít calo chỉ khoảng ≤ 800 kcal / ngày. Việc thay thế bữa ăn nên được lựa chọn cẩn thận bởi các bác sĩ, đồng thời nên có thiết bị theo dõi chặt chẽ. Để duy trì việc giảm cân cũng như giữ vững cân nặng tiêu chuẩn, bệnh nhân cần được tư vấn dài hạn.
Đối với bệnh nhân đã đạt được mục tiêu giảm cân ngắn hạn (3-6 tháng) hay dài hạn (≥1 năm) thì một chế độ duy trì cân nặng hiện có cần được thực hiện khi sẵn sàng. Chế độ trên nên thực hiện tối thiểu hàng tháng cũng như khuyến khích theo dõi cân nặng cơ thể liên tục (hàng tuần hoặc thường xuyên hơn), từ đó điều chỉnh chế độ ăn uống kèm theo hoạt động thể chất cường độ cao 200-300 phút/ 1 tuần.