Tết giờ, những cái thể hiện một phong tục đậm đượm của Tết cổ truyền Việt và Tết Hà Nội như: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh... dường như nhanh chóng biến mất. Thay vào đó, Tết của phong vị này chỉ còn trong lời kể của những người mẹ chăm chỉ, muốn con cái mình sống theo cốt cách gia phong, lễ nghi kể lại vào những đêm 30 hay những ngày nhàn của Tết. Hà Nội phát triển, thịt mỡ giờ người ta cũng kiêng ăn vì sợ béo phì, sợ gút và... sợ những cái liên quan đến sự vắn số của con người. Dưa hành, một món ăn truyền thống, có giá trị cho tiêu hóa, đến nay bao nhà khoa học về dinh dưỡng vẫn chau mày rằng chả hiểu sao ngày xưa chỉ bằng kinh nghiệm của mình mà các cụ ta đã “sáng chế” ra món ăn ấy thì giờ đây đã được mang đến tận cửa. Hết cảnh những bàn tay gái đảm chọn rau dưa để về mà chuốt rửa, phơi nắng hanh của cái cữ độ cuối Đông, đầu Xuân để trổ tài muối, ghém cho chồng, con ăn nữa...
Bánh chưng ư, lá, lạt cũng đã thành... dĩ vãng rồi. Cũng đã được đặt, được dịch vụ mang đến tận cửa. Chỉ cần bóc, cho lên đĩa, không được hưởng giá trị của thành quả lao động. Để cho nhiều con trẻ giờ ăn bánh chưng đấy nhưng nếu hỏi, đố đứa nào biết bánh chưng làm từ cái gì, gồm cái gì và làm như thế nào mà thành.
Phát triển và đánh đổi, cuộc sống không cho không và cũng không lấy không của người ta cái gì. Hà Nội phát triển, ngoài môi trường, lễ nghi, phong tục tập quán thì cái Tết cũng bị sự phát triển này lấy đi rất nhiều thứ. Kể cũng nhanh thật, ngược về vài chục năm trước thôi, thời gian chưa đủ “giải mã” cho một số kiếp con người mà sông hồ cũng thay đổi nhiều quá!
Mấy mươi năm trước, ngày ông Tô Hoài còn phơi phới trung trẻ, cặm cụi ngồi bên ô cửa sổ vùng Nghĩa Đô “thai nghén” tác phẩm để đời “Dế mèn phiêu lưu ký” thì Tô Lịch sông còn rộng miên man. Thấy bảo ngày ấy, ngồi nhà viết văn mà ông Tô Hoài còn đón được cả những luồng gió mát từ sông Tô thốc lên, mang theo cả những mùi ngái của con nước, cá tôm và bùn phèn.
Ngày ấy, gần chỗ ông Tô Hoài ở, sông Tô Lịch mênh mang, kéo dài từ Hồ Tây xuống tận khu dưới, qua cả vùng làng Cót, làng Mọc. Sông Tô thời ấy rộng lắm, để đi lại có cả chục bến đò ngang được hình thành. Mé chếch phía Đông khu Nghĩa Đô mà ông Tô Hoài sống còn nổi tiếng với tên chợ được coi là cổ nhất, tấp nập nhất, theo kiểu nhất cận thủy, nhị cận giang ấy là chợ Bưởi.
Chợ Bưởi được hình thành ở nơi ngã ba do sự hợp lưu của sông Tô Lịch và sông Thiên Phù. Giờ tôi cũng chẳng biết cái sông Thiên Phù ấy nó ở đâu, biến dạng và mất tích lúc nào rồi! “Chợ Bưởi tháng họp sáu phiên. Ngày tư tháng chín cho duyên đèo bòng”, đã có rất nhiều mối tình, lương duyên được nhen nhúm từ đây, ở các phiên chợ, nhất là chợ Tết. Không chỉ là ngày tư tháng chín mà chợ Bưởi còn là phiên chợ nổi tiếng vào những độ giáp Tết.
Tết, những bến đò đông nghịt người! Tre, giang, lá, măng... đặc sản của các vùng Tây và Đông Bắc đã tụ hợp, cắt đường từ sông Cái về đây. Người chen người, chân chen chân; trẻ theo mẹ, theo già đi chợ Tết. Từ đây, mọi thứ đặc sản qua sự lựa lặm đã về với các gia đình. Gói bánh, nấu bánh bên sông Tô Lịch của các gia đình là một hình ảnh rất đỗi làng quê Việt chỉ còn thổn thức một thời với người dân Kinh kỳ Thăng Long.
Sự thay đổi của Hà Nội đang được coi là dữ dội nhất. Chưa đầy 60 năm, những hình ảnh chợ Tết thế này chỉ còn tìm thấy trên sách báo!
Quảng An, cái phường trắng ngần những bắp chân thon của các cô thôn nữ một thời ra hồ rửa lá, đãi gạo, gói bánh giờ đây Tết truyền thống cho đúng hương vị cũng đã nhanh chóng bị các ngõ phố, các nhà cao tầng “nuốt” mất. Cái tất bật của những ngày giao thời giữa cũ và mới của một năm cũng không làm cho một vị lãnh đạo quên đi sự phát triển của phường mình. Ông cho biết: Phường tôi giờ có tới 50 quốc tịch chọn làm nơi sinh sống. Đấy là người nước ngoài thôi, chứ cụ thể mà tính thì hiện nay, cả tây lẫn ta đã có cả trăm thứ hộ khẩu mọi vùng miền về đây.
Chẳng tự hào như lãnh đạo phường, bố của bạn tôi là “người gộc” đất Kinh kỳ thì cứ chặc lưỡi: Đổ xô về mua nhà, mua đất. Mỗi người về đem theo một phong cách, “quan điểm” sống khác nhau, thế là tính cộng đồng của người gốc gác bị “phá” đi. Đường làng ngõ xóm cứ ngày bị thu hẹp thành các ngõ phố tin hin. Cuộc sống phức tạp hơn, tường rào cao và chắc hơn, lại cửa đóng then cài nữa. Khó mà làm quen, khó mà chào hỏi. Bọn tôi giờ cứ thui thủi với 4 bức tường.
Nói chuyện Tết, ông lại hồi cổ và tiếc nuối: Tết giờ là cái thủ tục thôi. Chả còn có thú vị và có cái Tết thực sự nữa. Mọi thứ, có tiền, ra chợ là có hết. Rồi ông lại rầu rầu chuyện của hai năm trước, ấy là khi ông định “dối già” bằng việc tổ chức cái Tết truyền thống. Nghĩa là tự mình làm lấy, tự mình lo lấy Tết cho gia đình nhân đứa trai đầu đưa vợ con đang định cư ở nước ngoài về ăn Tết. Để cho lũ cháu Việt và lũ cháu nửa tây nửa ta biết cái giò, đồng bánh chưng ra sao nên ông cặm cụi đi kiếm lá, kiếm lạt. Tất bật đến cả tuần giời ông mới kiếm được đôi ống giang và vài chục lá dong mạn ngược. Bố con, ông cháu tất bật rửa lá, chẻ lạt, gói bánh. Kiếm chỗ khuất tin hin còn lại sau nhà, chiều 30 ông cùng cháu con “nổi lửa” để “trông bánh chưng chờ rạng sáng”.
Lửa liếm đáy nồi, khói bếp lan tỏa, nồi bánh sôi ùng ục, đang say sưa kể chuyện Tết cổ truyền cho mấy đứa cháu thì cũng là lúc chuông nhà reo. Mấy anh trật tự phường xuất hiện vì ông tây sống cạnh bên thấy cháu con ông củi lửa mà hoảng hồn vì sợ cháy và kêu điện thoại đến phường. Chẳng phải chuyên gia về việc xử lý khói lửa, vậy nên nồi bánh của nhà ông cũng vì cái sự cố này mà chả ngon lành được. Ông bảo, giờ cuộc sống của mình là của cộng đồng rồi. Muốn cũng chả được nữa.
Làng Vòng, cái tên man mác thân thương ấy giờ đã bị cái tên phường hiện đại choán lấy. Ngày xưa, từ đầu đường Cầu Giấy chạy về miền Sơn Tây là cả một cánh đồng mênh mông, dân chỉ độc trồng lúa nếp truyền thống để cung cấp nguyên liệu cho làng đặc sản Cốm Vòng. Ấy thế mà thoáng cái, chưa đầy 20 năm sau, giờ đã nhà cửa san sát. Sinh viên học ở đây những năm này, tỏa đi khắp nơi công tác, giờ quay lại không còn định hình mình đang ở đâu nữa.
Lại đường phố, lại ngõ nhỏ tin hin, nhà cửa các loại san sát, sin sít lấn át cả rồi. Ruộng chả còn để trồng lúa, vậy nên Cốm Vòng, đặc sản một thời nay tìm được cũng khó. Toàn cốm “giả cầy”, “giả quốc” khoác thương hiệu làng Vòng để bán cho khách thôi.
Ngôi nhà bà chủ tôi trọ cũ, có đến cả vài chục phòng cho học sinh nghèo trọ học với giá đôi trăm, thuê với cái cớ cho vui cửa vui nhà giờ đã trở thành bé nhỏ, lọt giữa các nhà cao tầng. Bà chủ vốn là người hồi cổ! Năm nào cũng thế, không tự mình gói, luộc lấy chục bánh để thắp hương, biếu người quen là bà không chịu được.
Vậy mà phố xá đổi thay, giờ, thay cho những tất bật những lá, những lạt, những đỗ, những gạo ngày nào là sự ngồi không của bà. Bà bảo, giờ có muốn giở nghề cũng chả có điều kiện. Lá dong, lạt buộc đã khó kiếm lại chuyện củi giả để đun nấu nữa. Mọi thứ lại đành ra phố thôi. Vài đồng bánh mua về, ít bánh cốm thắp hương cũng phải chạy lên tận hàng Than để mua. “Sì sụp” vài bữa để cho qua cái ngày Tết thôi.