Đề tài vừa được Hội đồng KH&CN cấp quốc gia đánh giá nghiệm thu nhất trí thông qua và đánh giá cao các kết quả đạt được cũng như tiềm năng ứng dụng trong thực tế.
Đây là kết quả của đề tài “Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tự thân trong điều trị nhồi máu não” thuộc Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng (KC.10/16-20) được Bộ KH&CN phê duyệt.
PGS.TS Nguyễn Hoàng Ngọc, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Chủ nhiệm đề tài cho biết, đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 3 và là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế. Mục tiêu điều trị trong đột quỵ thiếu máu não cấp là phải khôi phục dòng máu đến vùng đang thiếu máu càng sớm càng tốt.
Đến nay, điều trị đặc hiệu nhồi máu não là kỹ thuật tái thông mạch não gồm 2 phương pháp: Phương pháp dùng thuốc tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch và phương pháp lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học. Cả hai phương pháp đều đòi hỏi bệnh nhân phải đến bệnh viện càng sớm càng tốt.
Chính vì vậy, các bệnh nhân nhồi máu não chủ yếu vẫn được điều trị bằng phác đồ cơ bản và điều trị phục hồi. Một hướng đi mới đang mở ra triển vọng lớn cho ngành y học phục hồi, đó là việc ứng dụng TBG trong điều trị các bệnh lý tổn thương hệ thần kinh nói chung và bệnh lý đột quỵ nhồi máu não nói riêng.
Liệu pháp TBg là một mô hình mới xuất hiện trong lĩnh vực điều trị đột quỵ não và được coi là một chiến lược tiềm năng trong tái tạo những thiếu hụt thần kinh ở bệnh nhân đột quỵ não.
Theo PGS.TS Nguyễn Hoàng Ngọc, TBG là những tế bào có khả năng tự đổi mới, tạo ra nhiều TBG tương tự nó và có khả năng biệt hóa thành tất cả hoặc một số dòng tế bào khác nhau. Từ TBG ban đầu, có thể biệt hóa thành các tế bào cơ tim, tế bào máu, tế bào gan hoặc tế bào thần kinh… Khác với các tạng khác khi cấy ghép phải dùng tạng từ người hiến, với liệu pháp TBG, nguồn TBG có thể được lấy từ chính các tế bào trong cơ thể bệnh nhân (TBG tự thân) hoặc lấy từ tế bào của người khác (TBG dị thân).
Nhóm nghiên cứu đã khám sàng lọc 162 bệnh nhân đột quỵ não, lựa chọn 92 bệnh nhân nhồi máu não vùng cấp máu động mạch não giữa, chia thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Nhồi máu não động mạch não giữa, điều trị bằng TBG tủy xương đường tĩnh mạch (31 bệnh nhân).
Nhóm 2: Nhồi máu não động mạch não giữa, điều trị bằng TBG tủy xươngđường động mạch (31 bệnh nhân).
Nhóm 3: Nhóm chứng (30 bệnh nhân).
Các bệnh nhân này đang được khám và điều trị tại Trung tâm Đột quỵ não, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Bệnh nhân bảo đảm các tiêu chí chẩn đoán đột quỵ dựa vào lâm sàng, hình ảnh và không có một trong các tiêu chuẩn loại trừ.
Đồng thời, thực hiện thu gom, chiết tách, xử lý, bảo quản và đánh giá chất lượng khối TBG tủy xương tự thân trên bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não. Cùng với đó, xây dựng chỉ định, quy trình sử dụng TBG tủy xương tự thân điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não; đánh giá kết quả điều trị bằng TBG tủy xương tự thân trên bệnh nhân đột quỵ não.
Kết quả, nhóm nghiên cứu đã xây dựng thành công và làm chủ quy trình sử dụng TBG tủy xương tự thân trong điều bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não; quy trình phân lập, bảo quản, đánh giá chất lượng TBG tuỷ xương tự thân sử dụng trong điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não. Đồng thời, xây dựng chỉ định, quy trình sử dụng TBG tủy xương tự thân qua đường tĩnh mạch ngoại vi điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não; xây dựng chỉ định, quy trình sử dụng TBG tủy xương tự thân qua đường can thiệp nội mạch điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não.
Về kết quả sử dụng khối TBG tủy xương tự thân trong điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não, theo nhóm nghiên cứu, nhóm bệnh nhân được truyền TBG có kết quả tốt hơn nhóm đối chứng tại thời điểm 6 tháng có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, truyền TBG tuỷ xương tự thân đường động mạch và tĩnh mạch là phương pháp điều trị an toàn trong thời gian điều trị và theo dõi sau 6 tháng.
Các chuyên gia trong Hội đồng KH&CN đánh giá, kết quả của đề tài có thể cải thiện chức năng của các bệnh nhân đột quỵ não cũng như tiềm năng sẵn sàng ứng dụng, chuyển giao cho các cơ sở y tế khác, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh nói riêng, giảm bớt gánh nặng về chăm sóc y tế, phúc lợi cũng như nhiều vấn đề xã hội khác nói chung.