Quay lại Dân trí
Dân sinh
  1. Diễn đàn Dân sinh

Thị trường lao động Việt Nam dịch chuyển mạnh mẽ

Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố báo cáo điểm lại tình hình phát triển kinh tế Việt Nam. Trong chuyên mục đánh giá về thị trường lao động Việt Nam, WB mô tả chi tiết những dịch chuyển mạnh mẽ trong bức tranh về việc làm trong vòng 25 năm qua. Hai vấn đề chính được WB đề cập, đó là lương tối thiểu ở Việt Nam đã tăng nhanh trong những năm gần đây, trong khi năng suất lao động (LĐ) tăng thấp hơn nhiều; các quy định chặt chẽ về bảo vệ việc làm, khiến chủ LĐ khó sa thải nhân viên làm việc không hiệu quả.

Lương tối thiểu tăng nhanh, năng suất lao động tăng thấp

Theo WB, 25 năm qua, Việt Nam nhanh chóng chuyển từ việc làm hoàn toàn mang tính chất nông nghiệp, hộ gia đình, hợp tác xã và doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sang ngành công nghiệp, dịch vụ, ngoài nông nghiệp, DN tư nhân trong và ngoài nước. Với sự chuyển dịch mạnh mẽ này, hiện nay trong tổng số 52,6 triệu người LĐ ở Việt Nam, thì LĐ cá thể hộ gia đình trong nông nghiệp chiếm 43%, ngoài nông nghiệp chiếm 21%, còn lại là LĐ làm công ăn lương chiếm 36% (tương đương 18,7 triệu người).

“Trong số LĐ làm công ăn lương này có 11,3 triệu người có hợp đồng LĐ (chiếm 22%). Trong đó, tỷ lệ có hợp đồng cao nhất là tại cơ quan nhà nước với 4 triệu người (chiếm 7,6%), tiếp đó là LĐ tại DN tư nhân: 3,9 triệu người (7,5%), tại DN FDI: 2 triệu người (3,8%) và tại DNNN: 1,4 triệu người (2,6%). Các số liệu này cho thấy, cứ 10 người lao động (NLĐ) thì có 1 người làm công ăn lương tại khu vực tư nhân. Việc tăng LĐ làm công ăn lương ở khu vực tư nhân đóng vai trò nền tảng giúp cải thiện mức sống ở Việt Nam”, báo cáo nêu rõ.

Khi so sánh mức lương tối thiểu/mức lương trung bình của khối phi nhà nước, tỷ lệ tại Việt Nam cao hơn đa số các nước khác. Sau những lần tăng gần đây, các mức lương tối thiểu (khối phi nhà nước) là khoảng ½ mức lương trung bình. Lương tối thiểu đã tăng hơn gấp đôi kể từ năm 2006, trong khi năng suất LĐ tăng thấp hơn nhiều.

Theo nhận định của WB, các quy định bảo vệ người lao động của Việt Nam rất tốt, “khắt khe” hơn nhiều so với tiêu chuẩn toàn cầu.

Ngoài phân tích về thay đổi trong cơ cấu việc làm, WB cũng cho rằng, Việt Nam còn thiếu các thể chế thích hợp để đàm phán và giải quyết tranh chấp liên quan tới LĐ, đồng thời đưa ra một số gợi ý chính sách để giải quyết những điểm yếu này, nhằm khuyến khích phát triển một thị trường LĐ hiệu quả hơn.  

Khó khăn trong sa thải nhân viên kém

Báo cáo của WB đánh giá cao quy định pháp luật về bảo vệ việc làm (EPL) ở Việt Nam, cho rằng các quy định bảo vệ người LĐ rất tốt, “khắt khe” hơn nhiều so với tiêu chuẩn toàn cầu và so với nhiều nước khác. Điều này có lợi cho NLĐ đang có việc làm, trong khi ít đem lại cơ hội mới cho “người ngoài cuộc”- là những người vẫn chưa có việc làm, và cũng khó cho chủ LĐ khi muốn sa thải nhân viên.

Các quy định này có thể là rào cản với tăng trưởng việc làm được trả công trong tương lai. Đặc biệt, các quy định bảo đảm việc làm khá chặt chẽ đã làm khó khăn trong việc sa thải nhân viên làm việc không hiệu quả và cắt giảm việc làm tại những thời điểm ít nhu cầu. Việc này có thể khiến các Cty “kén” tuyển LĐ, làm giảm việc làm chính thức và năng suất LĐ nói chung.

Để khuyến khích sự tăng trưởng lâu dài của việc làm, ông Sandeep Mahajan, Chuyên gia Kinh tế trưởng của WB, đưa ra những gợi ý về việc tiếp tục chuyển đổi thị trường LĐ của Việt Nam: “Nên điều hòa việc tăng lương tối thiểu trong tương lai đi liền với tăng năng suất LĐ. Cùng với đó, nới lỏng các quy định đối với các DN cho thuê lại LĐ và các hợp đồng tạm thời, hợp đồng thuê ngoài. Thúc đẩy sự đồng thuận trong thị trường LĐ bằng việc cải cách hệ thống quan hệ LĐ, giúp cho quyền lợi NLĐ được đại diện tốt hơn”.