Việc sửa đổi, bổ sung lần này tập trung vào các nhóm chế định: Hợp đồng lao động (các quy định về loại hợp đồng lao động, cho phép ký kết nhiều lần xác định thời hạn với lao động cao tuổi và lao động nước ngoài, các quy định về chấm dứt hợp đồng lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, cho thuê lại lao động, thời hạn, danh mục công việc, tiền ký quỹ…); Kỷ luật lao động (các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý, nội quy lao động, các quy định cấm đối với lao động nữ, lao động nuôi con nhỏ...); Lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam (các quy định về công việc được vào làm việc, điều kiện của người nước ngoài vào làm việc...); Tiền lương (các quy định về cơ cấu tiền lương, tiêu chí và các yếu tố xác định mức lương tối thiểu, thành phần hội đồng tiền lương quốc gia, trả lương làm thêm giờ, lương làm việc ban đêm...);
Thêm cơ hội làm việc cho người lao động
Vấn đề tăng thời gian làm thêm, tại Điều 106 Bộ luật lao động hiện hành quy định số giờ làm thêm tối đa của người lao động là không quá 30 giờ/tháng và không quá 200 giờ/năm, trường hợp đặc biệt không quá 300 giờ/năm. Thực tiễn thực hiện quy định này trong thời gian vừa qua, rất nhiều ý kiến đề nghị cần tăng thời giờ làm thêm tối đa để đáp ứng nhu cầu của đa số doanh nghiệp, nhu cầu của một bộ phận không nhỏ người lao động, tăng tính cạnh tranh của thị trường lao động Việt Nam. Trong mối tương quan so sánh với các quốc gia khu vực thì số giờ làm thêm tối đa của người lao động Việt Nam hiện ở mức thấp. Chẳng hạn như: Trung Quốc: 36 giờ/tháng, Indonexia: 56 giờ/tháng, Singapore: 72 giờ/tháng; Malaysia: 104 giờ/tháng; Lào: 45 giờ/tháng; Campuchia và Philippines: không khống chế.
Ths. Hà Đình Bốn – Vụ trưởng Vụ pháp chế (Tổ trưởng Tổ biên tập Dự án Bộ luật Lao động(sửa đổi)
Đã có ý kiến đề xuất tăng số giờ làm thêm tối đa theo hướng quy định: người lao động làm việc bình thường và làm thêm giờ tối đa không quá 12 giờ trên 01 ngày; và không được phép huy động người lao động làm thêm giờ liên tục quá 05 ngày cho mỗi đợt làm thêm giờ. Tuy nhiên cũng có ý kiến đề nghị không nên tăng thời giờ làm thêm, để bảo vệ quyền lợi cho người lao động… Bên cạnh đó, Điều 187 của Bộ luật Lao động hiện hành quy định tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện bình thường là 60 đối với nam và 55 đối với nữ. Tăng tuổi nghỉ hưu là một nội dung lớn đã được đặt ra nhiều lần trong quá trình soạn thảo các luật trước đây.
Lần sửa đổi này, tiếp tục có nhiều ý kiến đề nghị tăng tuổi nghỉ hưu vì những lý do sau: (1) Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam những năm gần đây đã tăng; khoảng cách giữa tuổi thọ bình quân với tuổi nghỉ hưu bình quân là rất dài; thực tiễn nhiều người nghỉ hưu vẫn tiếp tục tham gia lao động, có nhu cầu làm việc thêm, và họ vẫn có đủ sức khỏe tham gia lao động tiếp; (2) Dân số nước ta đang chuyển từ thời kỳ dân số vàng sang giai đoạn già hóa dân số, trong tương lai lực lượng lao động trẻ sẽ thiếu hụt; (3) Nếu cứ giữ tuổi nghỉ hưu như hiện tại thì quỹ hưu trí, tử tuất không đảm bảo trong dài hạn; (4) Bảo đảm sự không phân biệt đối xử về tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế như Công ước Cedaw, công ước của ILO…; (5) Tận dụng được nguồn nhân lực có trình độ, kỹ thuật cao và có kinh nghiệm; (6) Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã và đang điều chỉnh tăng tuổi hưu, có nước lên tới 67 tuổi.
Tuy nhiên còn nhiều ý kiến chưa đồng tình với đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu vì các lý do, trong đó có thể kể ra như: Nhiều người lao động mong muốn được nghỉ hưu với độ tuổi hiện hành để hưởng lương hưu hàng tháng. Sau đó, nếu làm việc thêm sau tuổi nghỉ hưu thì họ có 2 khoản tiền lương. Việc kéo dài tuổi nghỉ hưu nghĩa là làm giảm quyền lợi của người lao động; Tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên nước ta trong những năm qua luôn cao hơn so với tỷ lệ thất nghiệp chung toàn quốc: cơ cấu dân số dân số của nước ta hiện đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” còn kéo dài trên 1 thập kỷ nữa, mô hình kinh tế của Việt Nam đang chuyển đổi sang mô hình phát triển theo chiều sâu nên giải quyết việc làm cho người lao động trẻ vẫn là một trong những thách thức, áp lực lớn trong những năm tới;…
Người lao động, người sử dụng lao động đều được bảo vệ
Cùng với đó, Dự thảo Luật còn tập trung sửa đổi, bổ sung thêm các chủ đề lớn, đó là: Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp (điều kiện thành lập, đăng ký, hoạt động, giải thể, các hành vi nghiêm cấm); Đối thoại tại nơi làm việc, thương lượng tập thể và Thỏa ước lao động tập thể (cơ chế xác định chủ thể đại diện tập thể lao động tại doanh nghiệp để tham gia vào đối thoại, thương lượng); Giải quyết tranh chấp lao động (các quy định liên quan đến thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động bằng hòa giải và trọng tài lao động, chủ thể lãnh đạo và tổ chức đình công, phạm vi đình công, trình tự thủ tục đình công); Quản lý nhà nước về lao động (cơ quan quản lý nhà nước đăng ký tổ chức đại diện của người lao động tại doanh nghiệp).
Dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi): Xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa
Trước đây, Bộ luật Lao động năm 1994 đã quy định ở những nơi chưa thành lập được công đoàn cơ sở thì tập thể lao động có quyển cử đại diện để tổ chức và lãnh đạo đình công. Tuy nhiên, Bộ luật lao động 2012 chỉ quy định tổ chức đại diện tập thể lao động tại doanh nghiệp là công đoàn cơ sở, và ở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở thì công đoàn cấp trên cơ sở là đại diện. Vấn đề đặt ra hiện nay là người lao động có được quyền tự do thành lập tổ chức đại diện của mình ngoài tổ chức công đoàn.
Đây cũng là một nội dung được Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng khóa XII thảo luận rất kỹ, căn cứ Kết luận và nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng Khóa XII và Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Phải tuân thủ nguyên tắc, định hướng là: “Bảo đảm sự ra đời, hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp…, phù hợp với các nguyên tắc của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), đồng thời giữ vững ổn định chính trị - xã hội”.
Nếu Bộ luật lao động sửa đổi theo hướng cho phép người lao động được thành lập, hoạt động và gia nhập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp thì cần thiết phải có quy định nhằm: bảo đảm sự ra đời, hoạt động của tổ chức của người lao động; điều kiện thành lập, đăng ký và hoạt động của tổ chức này như thế nào…
Đây là nội dung hoàn toàn mới, chưa có trên thực tiễn và còn nhiều ý kiến trái chiều trong quá trình soạn thảo, do đó cần phải tiếp tục nghiên cứu thấu đáo, bổ sung, hoàn thiện khi áp dụng trong thực tế được thuận lợi, hạn chế thấp nhất các rủi ro. Do đó, dự thảo luật đang quy định mang tính nguyên tắc: Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp; Trình tự, thủ tục đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước đối với tổ chức này. Chính phủ sẽ quy định chi tiết các nội dung liên quan.
Từ những phân tích trên có thể thấy mục đích, mục tiêu, quan điểm của Dự án Luật lần này là sửa đổi, bổ sung tất cả các điều khoản mà thực tế thi hành gặp vướng mắc, bất cập, phát sinh; Kiến tạo khung pháp luật về lao động nhằm phát triển nhanh nguồn nhân lực, bảo vệ người lao động, Hỗ trợ doanh nghiệp thuận lợi trong quá trình tuyển dụng, sử dụng lao động; Xây dựng nền tảng pháp lý nhằm cải cách bộ máy quản lý nhà nước về lao động theo hướng xây dựng và phát triển thị trường lao động, giảm thiểu các tranh chấp lao động, hỗ trợ xây dựng quan hệ lao động hài hòa và phát triển; Thể hiện rõ quan điểm, đường lối của Đảng về việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế.