Thức dậy từ... gốc tích độc đáo
Cả thế kỷ nay, nói đến tộc người Đàng Hạ là nói đến những bí ẩn về gốc gác hình thành nên ngôi làng này. Nhắc về lịch sử làng, hoài niệm cuồn cuộn chảy trong đầu ông Nguyễn Bảy. Ngót 80 tuổi, ông Bảy như cuốn “lịch sử sống” ở Đàng Hạ. Ông bảo, ngay cả người được cử ra quản lý làng hiện nay cũng gọi ông mỗi khi có người muốn biết gốc tích người Đàng Hạ. Trước đây, người Đàng Hạ chỉ biết lên núi đốn củi, đốt than mang đổi lấy lương thực. Khi không đốn được củi thì kiếm củ khoai, củ sắn ăn. Phụ nữ thì canh thủy triều xuống rồi túa ra biển bắt ốc. Có những mùa xuân món ăn thịnh soạn nhất cũng chỉ là ốc luộc. Trẻ em thì mấy năm mới được mua bộ quần áo mới. Người dân bị ốm đau, bệnh tật chủ yếu chữa bệnh bằng thứ thuốc kiếm trên rừng.
Để có nước ngọt uống, người Đàng Hạ tìm nơi cát mịn, đào xuống khi nào nếm thấy mát lạnh thì uống. Người Đàng Hạ đưa ra lý giải nhuốm màu huyền thoại rằng, dòng nước ngọt ấy được phát hiện ra là do ngày xưa vua Gia Long bị quân Tây Sơn đuổi theo nên lạc vào vùng đất này. Khát nước nên vua cho quân đào một lớp cát mỏng lên. Kỳ diệu thay, nước ngọt trong vắt trào ra.
Người Đàng Hạ cũng không rõ ai nghĩ ra câu ca “Sơn Đừng là Sơn Đừng cùi/Đi chợ bằng gùi, đầu đội nón mo” nhưng được các thế hệ ở làng luôn khắc ghi. Câu ca ấy đặc tả những gian khó thuở sơ khai.
“Hơn 30 năm trước, làng chỉ lèo tèo 7 nóc nhà được dựng tạm, quanh năm gió thổi thông thốc. Mãi đến năm 1999 được địa phương hỗ trợ làm 7 căn nhà xây. Mình cũng không biết chính xác mình dân tộc gì, người làng cũng thế. Chỉ biết các thế hệ đi trước dặn lại, con trai thì lấy họ Đinh, con gái thì lấy họ Trần. Ai hỏi dân tộc gì thì bảo: Người Đàng Hạ hoặc dân tộc Đàng Hạ. Mãi về sau này làm một số giấy tờ, nhiều người đổi họ nên tôi cũng chuyển sang họ Nguyễn”, ông Bảy tâm tình. Tổ tiên của tộc người Đàng Hạ đến nay vẫn là ẩn số. Người làng truyền nhau rằng, có thể xưa kia một nhóm người từ vùng đất xa xôi dạt vào quần tụ. Hoặc là một nhóm người dân tộc thiểu số từ Bình Định kéo nhau đến dựng chòi sinh sống mà thành làng.
Vươn đến văn minh
Từ trong bộn bề gian khó, người Đàng Hạ bước vào cuộc sống văn minh. Những đôi chân to bè của cánh đàn ông không còn bấu vào núi khi chấm dứt việc đốn củi, đốt than. Những đôi tay cần mẫn, sạm đen của phụ nữ Đàng Hạ cũng không phải tứa máu khi ráng sức cào xuống cát kiếm con ốc, con còng về ăn nữa.Nhiều người già ở Đàng Hạ tự tin, xuân 2023 này sự ấm no đã hiện hữu trong từng ngôi nhà. Điện thắp sáng, nước sạch… đều đầy đủ. Người dân đã biết ra khơi đánh bắt cá; người năng động đã nhanh chóng triển khai việc nuôi lồng bè.
Đã qua tuổi lục tuần, chứng kiến bao thăng trầm của làng lại được bầu chọn đứng ra quản lý tộc người Đàng Hạ, ông Võ Thành Trung chia sẻ: Bản thân tôi cũng chẳng biết gốc gác mình dân tộc gì. Từ 7 hộ ở trong chòi tạm đến nay đã có trên 50 hộ. Ở đây chúng tôi sống như một đại gia đình, nỗi buồn nhà này cũng là của nhà khác. Không ganh ghét, đố kỵ nhau. Xuất thân từ đâu không còn quan trọng, vùng đất nào dạt tới đây thì tất cả giờ thành xóm với nhau rồi, xem đây là quê hương. Người khỏe mạnh giúp người yếu. Xuân về, nhà nọ đến nhà kia thăm hỏi, chúc mừng nhau khi có niềm vui mới, thành quả mới.
Trước đây, dù ở biển nhưng người Đàng Hạ vẫn sợ ra khơi, sợ những trận cuồng nộ của biển. Nhưng rồi trải qua tháng năm được biển bao bọc, người Đàng Hạ tự tin ra khơi. Xem biển là “người mẹ” thiên nhiên vĩ đại.Sau những ngày bám biển, trai tráng Đàng Hạ vỡ lẽ rằng, tự lúc nào biển đã trở thành ký ức nên đi xa nhớ xóm làng đồng nghĩa là nhớ biển. Bởi vậy, người Đàng Hạ quy ước với nhau tuyệt đối không có hành động nào làm ảnh hưởng đến biển. Thấy rác là phải nhặt ngay. Cả những hộ nuôi trồng ven bờ cũng xem việc bảo vệ môi trường biển là lẽ sống của mình.
Quen ở nhà xây từ nhiều năm nay nhưng ông Đinh Văn Trớt, tộc người Đàng Hạ vẫn nhớ như in những ngày tháng cũ để nhắc nhở mình không ngừng vươn lên. Nhìn những chiếc ghe lướt sóng ra biển, ông Trớt tự tin, cứ đà này người Đàng Hạ sẽ ấm no. Xưa sống biệt lập, không muốn học hỏi, không biết đi biển nhưng giờ đã biết rất nhiều. Tộc người Đàng Hạ không còn lẻ loi, u tịch.
Lũ trẻ ở Đàng Hạ bây giờ ham học như trẻ con thành phố, các thầy cô giáo đã bớt nhọc công sớm tối vận động. Các em lớn lên với ý nghĩ và niềm tin về mọi điều tốt đẹp đang vẫy gọi phía trước, chứ không trôi trong cuộc sống kiểu đánh bắt, hái lượm như thuở ông cha.
“Em nào đến tuổi được ghi danh sách đưa đến trường. Các đợt tiêm chủng đều được nhân viên y tế đến hướng dẫn tận tình. Việc chăm sóc sức khỏe được chú trọng. Mỗi năm học mới, học sinh còn được Nhà nước cấp 140kg gạo, hỗ trợ tiền xe đến trường. Nhiều em sau học nghề đã đến các thành phố lớn công tác. Ngày xuân, người cao tuổi được chính quyền địa phương tặng quà chu đáo”, ông Võ Thành Trung thông tin.
Khi cái ăn đã được no đủ, chỗ ở đã được xây kiên cố, người Đàng Hạ đưa hát bội thành “đặc sản” tinh thần không thể thiếu trong mùa xuân. Mỗi khi tiếng hát cất lên với âm thanh trầm bổng, ấm nồng, hào sảng, những bước chân rầm rập như xích lại gần nhau hơn. Đời sống tinh thần phong phú cùng sự chịu thương, chịu khó của người Đàng Hạ sẽ làm nên những mùa xuân rực rỡ.