Nghị định 20/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/7/2021. Nghị định 136/2013/NĐ-CP; Điều 17 Nghị định 140/2018/NĐ-CP; các điều từ Điều 40 đến Điều 43 Nghị định 103/2017/NĐ-CP; các điều từ Điều 15 đến Điều 23 Nghị định 28/2012/NĐ-CP hết hiệu lực kể từ ngày 1/7/2021.
Theo đó, tăng thêm các đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng gồm:
Đối tượng thứ nhất là trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các trường hợp dưới đây:
Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi; mồ côi cả cha và mẹ; mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật; mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội; mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chỉnh tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Cả cha và mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật; cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội; cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội; cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giảo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Đối tượng thứ hai là người thuộc diện quy định trên đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng mà đủ 16 tuổi nhưng đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất thì tiếp tục được hưởng chính sách trợ giúp xã hội cho đến khi kết thúc học, nhưng tối đa không quá 22 tuổi.
Đối tượng thứ ba là trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo.
Đối tượng thứ tư là người thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo chưa có chồng hoặc chưa có vợ, đã có chồng hoặc vợ nhưng đã chết hoặc mất tích theo quy định của pháp luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 đến 22 tuổi và người con đó đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất quy định tại mục hai (sau đây gọi chung là người đơn thân nghèo đang nuôi con).
Đối tượng thứ năm là người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định sau đây:
Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.
Người cao tuổi từ đủ 75 đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc diện quy định ở điểm a khoản này đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn;
Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng;
Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở trợ giúp xã hội nhưng có người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng.
Đối tượng thứ sáu là người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật.
Đối tượng thứ bảy là trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc đối tượng quy định tại các mục (một), (ba) và (sáu) đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn (đây là một quy định mới).
Đối tượng thứ tám là người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng như: Tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp bảo bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hàng tháng.
Bên cạnh đó, Nghị định còn điều chỉnh mức chuẩn trợ giúp xã hội lên 360.000 đồng/tháng.
Các đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp hàng tháng gồm: Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng; trẻ em có HIV/AIDS thuộc hộ nghèo; người thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo chưa có chồng/vợ, hoặc có chồng/vợ nhưng đã chết hoặc mất tích đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc con từ 16-22 tuổi đang học văn hóa, nghề... người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo; người khuyết tật nặng, trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo; người có HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng… Mức trợ cấp được tính từ hệ số 1,5-3,0 tùy vào đối tượng.
Đáng chú ý, mức hỗ trợ chi phí mai táng cho các đối tượng bảo trợ xã hội cũng được tăng lên với mức tối thiểu bằng 20 lần mức chuẩn quy định (tối thiểu 7.200.000 đồng). Trường hợp được hỗ trợ chi phí mai táng trong diện khác mà thuộc trong quy Nghị định này thì chỉ được hưởng một mức cao nhất.
Nghị định nêu rõ, tùy theo khả năng cân đối của ngân sách, tốc độ tăng giá tiêu dùng và tình hình đời sống của đối tượng bảo trợ xã hội, cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh tăng mức chuẩn trợ giúp xã hội cho phù hợp; bảo đảm tương quan chính sách đối với các đối tượng khác.
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2020, cả nước thực hiện trợ cấp xã hội hằng tháng cho 3,2 triệu đối tượng bảo trợ với tổng kinh phí hơn 18 nghìn tỷ đồng. Với quy định mới này, dự kiến tổng số đối tượng được hưởng chính sách năm 2021 khoảng 3,7 triệu người với tổng kinh phí 25,6 nghìn tỷ đồng.