Quay lại Dân trí
Dân Sinh
  1. Bảo hiểm xã hội

Người lao động có thể đóng khoản nợ bảo hiểm thất nghiệp để hưởng chế độ?

Thành Công
Thành Công

Đưa ra đề xuất này, theo Bộ LĐ-TB&XH, là để có cơ chế đặc thù bảo vệ người lao động, trong trường hợp doanh nghiệp không còn khả năng đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.

Theo Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, tính đến hết năm 2022, cả nước có hơn 30.000 doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp đã giải thể, phá sản, chủ bỏ trốn. Tổng số tiền nợ khó thu hồi là hơn 4.000 tỉ đồng của trên 213.300 người lao động.

Ngoài các quyền lợi về BHXH, BHYT, khi thôi việc, mất việc số lao động trên rất thiệt thòi vì không được hưởng trợ cấp thất nghiệp.

tro-cap-that-nghiep.jpg
Bộ LĐ-TB&XH đề xuất bổ sung một chương quy định về chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp và biện pháp xử lý vi phạm. (Ảnh minh họa: TNI).

 

Bổ sung quy định về cơ chế đặc thù để bảo vệ quyền lợi người lao động

Góp ý cho dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), vừa qua, BHXH Việt Nam đã đề nghị bổ sung quy định về cơ chế đặc thù để bảo vệ quyền lợi cho người lao động trong trường hợp người sử dụng lao động không còn khả năng đóng bảo hiểm thất nghiệp.

Tại dự thảo luật, Bộ LĐ-TB&XH đề xuất bổ sung một chương quy định về chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp và biện pháp xử lý vi phạm.

Cụ thể, chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp thực hiện theo quy định tại Luật BHXH hiện hành.

Biện pháp xử lý vi phạm về chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp, bao gồm: Đóng đủ số tiền bảo hiểm thất nghiệp chậm đóng, trốn đóng và nộp số tiền bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền bảo hiểm thất nghiệp chậm đóng, trốn đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

Đồng thời, xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh theo pháp luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam và xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam; không xem xét trao tặng các danh hiệu thi đua, khen thưởng.

Bên cạnh đó, cơ quan soạn thảo cũng đề xuất thêm cơ chế đặc thù để bảo vệ người lao động, trong trường hợp người sử dụng lao động không còn khả năng đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động

Theo đó, cơ quan BHXH xác nhận tạm thời thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp khi có yêu cầu của người lao động, làm cơ sở thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong trường hợp người sử dụng lao động trốn đóng, chậm đóng bảo hiểm thất nghiệp.

Đó là trường hợp doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh; không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký; bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do cưỡng chế về quản lý thuế; đang làm thủ tục giải thể, đã bị chia, bị hợp nhất, bị sáp nhập; đang làm thủ tục phá sản; đã phá sản; không có người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.

Khi người sử dụng lao động tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc có quyết định tuyên bố phá sản, giải thể, mà thu hồi được số tiền chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp, thì cơ quan BHXH xác nhận bổ sung thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp.

Đây sẽ là cơ sở thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.

Đối với trường hợp tính cả thời gian chậm đóng, trốn đóng mới đủ điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp, thì người lao động được lựa chọn nộp số tiền chậm đóng, trốn đóng vào Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp để đủ điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Việc bổ sung cơ chế đặc thù đối với lao động bị nợ bảo hiểm thất nghiệp trong trường hợp người sử dụng lao động không còn khả năng đóng, cũng là đề xuất của BHXH Việt Nam khi góp ý vào dự thảo luật.

Liên quan đề xuất này, tại Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân về đề nghị xây dựng dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), Bộ LĐ-TB&XH cho hay sẽ tiếp thu và rà soát bổ sung quy định về trường hợp người sử dụng lao động không còn khả năng đóng BHTN cho người lao động (chậm đóng, trốn đóng, giải thể, phá sản ...) và giao Chính phủ quy định. 

Mức trợ cấp thất nghiệp tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở 

Theo quy định hiện hành (Tại khoản 1 Điều 50 Luật Việc làm 2013) thì mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp.

Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở, hoặc không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng.

Tuy nhiên, mức hưởng tối đa còn phụ thuộc vào khu vực hưởng. Trong đó, đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở. 

Cụ thể, theo quy định hiện hành, người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện, đó là:

- Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp: Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng.

- Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn, xác định thời hạn;

Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng.

- Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

- Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp: Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù; ra nước ngoài định cư, đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; chết.

Như vậy, năm 2024, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp; nhưng không quá 5 lần mức lương cơ sở.

Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.

Thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày thứ 16, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định

Thông tư số 15/2023/TT-BLĐTBXH của Bộ LĐ-TB&XH có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/2/2024 quy định, tháng hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo tháng dương lịch. 

Mỗi tháng hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày người lao động bắt đầu hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại khoản 3 Điều 50 Luật Việc làm đến ngày đó của tháng sau trừ 1 ngày. 

Trường hợp tháng sau không có ngày tương ứng thì ngày kết thúc của tháng hưởng trợ cấp thất nghiệp là ngày cuối cùng của tháng đó.

Số liệu thống kê cho thấy, hiện nay vẫn còn tình trạng người sử dụng lao động chậm đóng, trốn đóng BHXH, trong đó có bảo hiểm thất nghiệp, dẫn đến việc hưởng chính sách bảo hiểm thất nghiệp sai quy định (chiếm 3,2% tổng số trường hợp phải thu hồi).

 

Tin liên quan