Trong khoảng vài năm trở lại đây, bệnh bạch hầu xuất hiện rải rác tại những tỉnh như: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đắk Lắk, Đăk Nông, Nghệ An, Hà Giang,...

Theo thống kê của Bộ Y tế, từ đầu năm 2024 đến nay, cả nước ghi nhận 6 trường hợp mắc bệnh bạch hầu, trong đó 1 trường hợp tử vong. Cụ thể: Tỉnh Hà Giang ghi nhận 3 trường hợp mắc bệnh bạch hầu trong các tháng 1, 2 và 4/2024 tại các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh; Tỉnh Nghệ An ghi nhận 1 trường hợp mắc và tử vong (tháng 6/2024) tại huyện Kỳ Sơn; Tỉnh Bắc Giang ghi nhận 2 trường hợp mắc bệnh (tháng 7/2024) tại huyện Hiệp Hòa, có tiếp xúc gần với trường hợp tử vong của tỉnh Nghệ An.
Nhằm chủ động kiểm soát, ngăn chặn, không để bùng phát bệnh bạch hầu, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký công điện số 68/CĐ-Ttg ngày 13/7/2024 chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tăng cường công tác phòng, chống bệnh bạch hầu.
Không được chủ quan với bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu dường như nghe đã quen, vì đây là bệnh đã xuất hiện từ lâu, đã có thuốc đặc trị. Tuy nhiên, với nhiều người hiện nay, tìm hiểu rõ về bệnh bạch hầu là hoàn toàn cần thiết, nhằm tránh tâm lý chủ quan.
Bệnh bạch hầu (diphtheria) là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu - tên khoa học là Corynebacterium diphtheria gây ra.
Vi khuẩn từ các mảng trắng có thể tiết ra nội độc tố, dễ gây suy hô hấp và tuần hoàn, liệt khẩu làm thay đổi giọng nói, sặc và khó nuốt khi ăn uống, lú lẫn; nặng thì hôn mê, sau đó tử vong. Một số trường hợp biến chứng viêm cơ tim hay viêm dây thần kinh ngoại biên. Ở những người không được tiêm phòng, hoặc không được điều trị kịp thời, 10% trường hợp người bệnh sẽ tử vong mặc dù đã dùng kháng sinh và sử dụng thuốc chống huyết thanh.
Tác nhân gây bệnh bạch hầu là vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae thuộc họ Corynebacteriaceae. Vi khuẩn bạch hầu có 3 tuýp là Gravis, Mitis và Intermedius. Vi khuẩn bạch hầu tiết ra các độc tố gây tổn thương nhiều tổ chức và cơ quan của cơ thể. Ổ chứa vi khuẩn bạch hầu nằm ở người bệnh và cả người lành mang vi khuẩn. Đây vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh.
Bệnh khởi phát cấp tính và các đặc điểm chính là đau họng, sốt và sưng hạch ở cổ. Độc tố bạch hầu làm cho màng mô chết đi và tích tụ trên cổ họng và amidan, khiến việc thở và nuốt trở nên khó khăn. Bệnh lây lan qua tiếp xúc trực tiếp từ người bệnh sang người lành qua đường hô hấp hoặc gián tiếp khi tiếp xúc với đồ chơi, vật dụng có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Sau khoảng 2 tuần nhiễm vi khuẩn, bệnh nhân đã có thể lây nhiễm cho người khác.
Có nhiều triệu chứng xuất hiện trong 2 - 5 ngày sau khi phơi nhiễm. Ban đầu, người nhiễm bệnh sẽ bị đau họng, ho và sốt kèm ớn lạnh. Các triệu chứng này tăng dần từ nhẹ đến nặng. Chính vì triệu chứng khá phổ biến nên người dễ nhầm tưởng là bị cảm lạnh.
Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, bệnh bạch hầu sẽ có các biểu hiện khác nhau: Bệnh bạch hầu mũi trước; Bệnh bạch hầu họng và amidan; Bệnh bạch hầu thanh quản; Bệnh bạch hầu các vị trí khác như gây loét ở da, niêm mạc (niêm mạc mắt, âm đạo hay ống tai).

Bạch hầu gây biến chứng nguy hiểm
Theo BSCK II Nguyễn Trung Cấp - Phó Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương: Sau thời gian ủ bệnh 2-5 ngày, khởi đầu bệnh nhân mắc bệnh bạch hầu sẽ xuất hiện các triệu chứng giống như viêm họng như đau họng, ho, một số bệnh nhân nuốt khó, nuốt đau, sốt. Đa số bệnh nhân sau đó dần hồi phục. Một số bệnh nhân có tiến triển bệnh bạch hầu nặng và ác tính.
Vì vậy, khi xuất hiện các biểu hiện nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu, tốt nhất người dân nên đến cơ sở y tế để được theo dõi và điều trị kịp thời.
Biến chứng nghiêm trọng của bệnh bạch hầu đó là giả mạc phát triển nhanh, lan tỏa xuống đường hô hấp gây ra tình trạng bít tắc đường hô hấp. Hoặc những mảnh giả mạc của bạch hầu có thể rụng, khiến người bệnh hít phải gây sặc, tắc đường thở.
Nguy cơ biến chứng nguy hiểm hơn đó là viêm cơ tim, bởi độc tố bạch hầu gây tác dụng mạnh đối với cơ tim. Những bệnh nhân bệnh bạch hầu thể ác tính có thể dẫn đến viêm cơ tim, suy tim cấp... Nặng hơn nữa có thể dẫn đến sốc, suy đa tạng, tử vong.
Ngoài ra, có thể gặp biến chứng bạch hầu trên thận, gan, tuyến thượng thận…
Chủ động phòng ngừa bệnh
Để phòng ngừa bệnh bạch hầu, người dân cần chú ý:
- Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hằng ngày.
- Hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh
bạch hầu.
- Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ
ánh sáng.
- Người có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời.
- Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vaccine phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.
Bạch hầu là bệnh nguy hiểm nhưng có thể phòng bệnh bằng cách tiêm chủng. Bệnh bạch hầu không có tính miễn dịch trọn đời, vì thế, nếu đã mắc bệnh, nguy cơ bị tái nhiễm các lần sau vẫn rất cao. Chủ động tạo miễn dịch với vaccine là biện pháp an toàn, hiệu quả và kinh tế nhất.
Tiêm chủng đủ mũi và tiêm nhắc lại theo thời gian khuyến cáo là cách phòng bệnh bạch hầu ở trẻ em hiệu quả nhất, tỷ lệ bảo vệ đến 97%. Cơ thể chỉ cần 2-3 tuần sau khi tiêm đủ liều để sản sinh miễn dịch với bệnh.
Hiện nay, nước ta chưa có vaccine phòng bạch hầu đơn; trẻ em được tiêm vaccine ngừa bệnh này bằng các loại vaccine phối hợp có kháng nguyên bạch hầu. Tùy vào độ tuổi của đối tượng tiêm ngừa, bác sĩ sẽ chỉ định loại vaccine và lịch tiêm
phù hợp.
Sau khi hoàn tất lịch tiêm chủng 4 mũi vaccine 5 trong 1 hoặc 6 trong 1 trong 2 năm đầu đời (vào lúc 2, 3, 4 và 16-18 tháng), trẻ cần tiêm nhắc 1 mũi vaccine có thành phần bạch hầu vào lúc 4-6 tuổi và 9-15 tuổi. Người lớn đã hoàn thành lịch tiêm cơ bản cần tiêm một mũi 3 trong 1, sau đó nhắc lại một mũi mỗi 10 năm.
Mới đây, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 10/2024/TT-BYT ngày 13 tháng 6 năm 2024 ban hành Danh mục bệnh truyền nhiễm, đối tượng và phạm vi phải sử dụng vaccine, sinh phẩm y tế bắt buộc. Trong đó, lịch tiêm chủng trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng sẽ có thêm 1 liều vaccine phòng bệnh bạch hầu cho trẻ 7 tuổi.
Hồng Trần
Ấn phẩm Vì trẻ em số 14