Xuất khẩu tăng trưởng vượt bậc
Bà Nguyễn Thị Lan Phương, Phó trưởng phòng WTO và FTA - Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho biết, Hiệp định CPTPP mang lại những lợi ích rất tích cực đối với hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư của Việt Nam.
Đặc biệt, có sự tăng trưởng ấn tượng về kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước thành viên CPTPP, nhất là những thị trường chưa từng có FTA trước đó. Chẳng hạn như với Canada, Mexico và Peru đã có sự tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt bậc.
Năm 2023, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước chưa có FTA này khoảng 12 tỷ USD và gấp 2 lần so với năm 2019 khi chưa có CPTPP; thặng dư thương mại cũng tăng trưởng rất lớn, từ 5 tỷ USD lên 9 tỷ USD năm 2023.
Trong 9 tháng năm 2024, tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước CPTPP với khoảng 76 tỷ USD, tăng gần 10% so với cùng kỳ năm 2023, thặng dư thương mại khoảng 6,6 tỷ USD.
Ngoài gia tăng trao đổi hàng hóa, dịch vụ, hiệp định này đã thu hút doanh nghiệp FDI đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, mở ra cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam trở thành mắt xích trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
Sau thời gian hiệp định đi vào thực thi, các nhà đầu tư nước ngoài từ các thành viên CPTPP như Singapore, Nhật Bản đã tiếp cận thị trường Việt Nam một cách tích cực để tận dụng cơ hội, lợi thế từ CPTPP.
Việc tham gia kết nối, liên kết với doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa khi tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia đến từ thành viên của CPTPP trở thành lợi ích nổi bật cho doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tận dụng cơ hội từ hiệp định.
Là một trong những doanh nghiệp có nhiều hoạt động trong việc kết nối, liên kết với doanh nghiệp của Nhật Bản nói riêng cũng như doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia, ông Nguyễn Thành Trung, Giám đốc CNCTech Thăng Long, Tập đoàn CNCTech cho biết, tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI giúp doanh nghiệp xây dựng mối quan hệ hợp tác chiến lược với doanh nghiệp nước ngoài, nâng cao về chất lượng sản phẩm;
Đồng thời phát triển được nguồn nhân lực, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, có thể cạnh tranh được một cách sòng phẳng với các công ty nước ngoài.
Ông Nguyễn Trung Hiếu, Trưởng Ban Kế hoạch kinh doanh, Công ty Ô tô Toyota Việt Nam cho biết, việc gia tăng nhà cung cấp nội địa vào chuỗi cung ứng của Toyota sẽ tăng cường tỷ lệ nội địa hóa, tìm kiếm nhà cung ứng trong nước.
Nhờ đó, giảm bớt phụ thuộc vào nước ngoài, nhà sản xuất có sự chủ động hơn rất nhiều với nguồn cung trong nước. Mặt khác, khi áp dụng Hiệp định CPTPP, doanh nghiệp có thêm lựa chọn, thêm cơ hội để cân nhắc những nguồn linh kiện từ Nhật Bản hoặc từ các thành viên khác trong hiệp định.
Hơn nữa, khi lộ trình áp dụng của Hiệp định CPTPP đối với ngành ô tô về 0% vào khoảng năm 2030 - 2031 sẽ giúp doanh nghiệp có sự cạnh tranh tốt hơn trên thị trường Việt Nam.
Nguyên tắc “có đi, có lại” khi tham gia chuỗi giá trị
Mặc dù đã đạt nhiều kết quả khả quan nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, mức độ tận dụng các FTA và tỷ trọng hàng hóa Việt Nam tại các thị trường này còn chưa tương xứng với tiềm năng.
Theo bà Nguyễn Thị Lan Phương, quá trình thực thi CPTPP cũng cho thấy, phần lớn doanh nghiệp tận dụng được các FTA này là doanh nghiệp FDI. Điển hình là các doanh nghiệp trong những lĩnh vực linh kiện điện tử, giày dép, dệt may, máy tính; còn đối với doanh nghiệp liên quan đến nông, thủy sản là doanh nghiệp thế mạnh của Việt Nam thì mức độ tận dụng còn tương đối hạn chế.
Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng hóa của Việt Nam tại các thị trường CPTPP còn hạn chế, không chỉ CPTPP mà những FTA thế hệ mới khác như EVFTA hay UKVFTA cũng chỉ dưới 10%. Với những thị trường CPTPP như Mexico và Canada, tỷ lệ đó dưới 2% và tỷ lệ tận dụng ưu đãi với CPTPP năm 2022 chỉ khoảng 5%.
Đại diện Vụ Chính sách thương mại đa biên cho rằng, có nhiều giải pháp khác nhau để các doanh nghiệp có thể tận dụng được CPTPP hay các FTA nói chung. Một trong số đó là kết hợp với các doanh nghiệp FDI để hình thành nên một chuỗi cung ứng. Bởi doanh nghiệp FDI là những tập đoàn đa quốc gia, có năng lực về vốn, kinh nghiệm quản trị toàn cầu và có công nghệ tiên tiến hàng đầu.
Nếu doanh nghiệp Việt Nam vào được chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI thì có thể học hỏi từ “người khổng lồ” để lớn mạnh nhanh hơn và hội nhập quốc tế được tốt hơn.
Do đó, để có thể gia nhập vào chuỗi FDI hay sẵn sàng trao đổi trực tiếp với doanh nghiệp, đối tác nước ngoài thì bản thân doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực thay đổi để hấp thụ được những cơ hội trong các FTA. Ngược lại, không phải chỉ doanh nghiệp Việt Nam thay đổi mà cần sự chung tay “có đi, có lại” của các doanh nghiệp FDI.
Bởi, khi doanh nghiệp FDI vào Việt Nam cũng được hưởng lợi trên giá trị mảnh đất của Việt Nam, hưởng lợi từ các hiệp định như CPTPP.
Vì vậy, doanh nghiệp FDI cũng cần nỗ lực đồng hành cùng doanh nghiệp Việt Nam đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ, nâng cao năng lực quản trị để có thể trưởng thành và đáp ứng được tiêu chuẩn trở thành nhà cung ứng đầu vào cho các doanh nghiệp FDI.
Khánh Vân
Báo Lao động và Xã hội số 148