Quay lại Dân trí
Dân Sinh
  1. Diễn đàn Dân sinh

Ngành dệt may: Chủ động nguyên liệu để tránh rủi ro xuất khẩu

LĐXH
LĐXH

(LĐXH) - Dệt may là một trong những ngành xuất khẩu trụ cột của nền kinh tế. Việc phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu đang là thách thức lớn đối với ngành này.

Nỗ lực chủ động nguyên liệu

Những năm gần đây, Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế thế giới, tích cực tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Với thuế suất giảm dần về 0%, các FTA đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam mở rộng thêm thị trường xuất khẩu bên cạnh các thị trường truyền thống, có nhiều cơ hội tham gia vào các chuỗi cung ứng quốc tế.

Ngành dệt may: Chủ động nguyên liệu để tránh rủi ro xuất khẩu - 1
Nhà máy xơ sợi Đình Vũ cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt may.

Nhưng để được hưởng ưu đãi thuế quan, các doanh nghiệp phải đáp ứng quy tắc xuất xứ theo từng FTA, chẳng hạn với Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP) là quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, với Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) là "từ vải trở đi”.

Mới đây, một nhà máy sản xuất vải (công suất mỗi năm có thể đạt 60 triệu mét vải) với vốn đầu tư hơn 4.380 tỷ đồng của Công ty cổ phần tập đoàn Thái Tuấn đi vào hoạt động tại tỉnh Long An sau 3 năm thi công. Đây là điều đáng khích lệ khi ngành dệt may nội địa có thêm nhà máy cung cấp vải - nguyên liệu sản xuất cốt lõi của ngành may mặc.

Trước đó, Công ty TNHH SAB Việt Nam thuộc Tập đoàn Weixing đã khánh thành nhà máy công nghiệp SAB Việt Nam tại khu công nghiệp Bỉm Sơn (Thanh Hóa). Giai đoạn đầu, nhà máy chủ yếu sản xuất các loại khóa kéo, phụ kiện phần cứng và hợp kim. 

Công ty cổ phần Dệt may - Đầu tư - Thương mại Thành Công (TCM) cũng đã xây dựng được quy trình khép kín từ sợi - đan/dệt - nhuộm - may. Việc chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào từ sợi, vải đã mang lại cho TCM lợi thế cạnh tranh cũng như hưởng các lợi thế ưu đãi về thuế quan từ các FTA.

Ngoài ra, các sản phẩm sợi tự nhiên, sợi tái chế... cũng đang được nhiều doanh nghiệp nghiên cứu, đầu tư, phát triển.

Ông Nguyễn Đức Trị, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam      (Vinatex) cho biết, tập đoàn đang từng bước xây dựng chuỗi cung ứng khép kín từ sợi - dệt - nhuộm - may mặc, trong đó Trung tâm PD&B (chuyên nghiên cứu và phát triển các mẫu sản phẩm từ nguồn vải được sản xuất trong nước) được xem là yếu tố then chốt trong việc hiện thực hóa chiến lược này.

“Nhờ vào nguồn nguyên liệu chủ động, Trung tâm PD&B có thể tạo ra các mẫu thiết kế phù hợp với nhu cầu thị trường quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu xuất xứ từ các FTA.

Điều này giúp các doanh nghiệp ngành may của tập đoàn giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, tận dụng được tối đa ưu đãi thuế quan trong các FTA, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp sợi, dệt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo để đáp ứng yêu cầu nguyên liệu đầu vào”, ông Trị cho biết thêm.

Dù đã nỗ lực giảm phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa nhưng ngành dệt may vẫn phải phụ thuộc khoảng 60% nguyên phụ liệu nhập khẩu từ nước ngoài.

Theo thống kê từ Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), 70% trong số hơn 3.800 nhà máy dệt sản xuất các sản phẩm may mặc, chỉ 6% sản xuất sợi, 17% sản xuất vải và 4% là các cơ sở nhuộm.

Mỗi năm, Việt Nam sử dụng khoảng 400.000 tấn bông nhưng chỉ có 3.000 tấn được cung cấp bởi các chuỗi cung ứng trong nước, tức là tỷ lệ nội địa chưa đáp ứng được 1% nhu cầu. Hiện sản xuất vải trong nước mới chỉ đạt khoảng 2,3 tỷ mét/năm, đáp ứng 25 - 30% nhu cầu.

Cần hỗ trợ mạnh mẽ từ chính sách

Chiến lược phát triển ngành dệt may và da giày Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào cuối năm 2022 đã đề ra mục tiêu nâng tỷ lệ nội địa hóa đạt 51 - 55% nhu cầu cho giai đoạn 2021 - 2025 và 56 - 60% nhu cầu cho giai đoạn 2026 - 2030. 

Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Vitas cho rằng vẫn còn rất nhiều việc phải làm để ngành dệt may đạt mục tiêu về tỷ lệ nội địa hóa đề ra trong chiến lược. Ngành dệt may đang mất cân đối giữa các công đoạn sản xuất. Hai khâu ở đầu và cuối chuỗi là sợi và may có quy mô phát triển rất lớn, trong khi dệt và nhuộm vẫn là nút thắt trong nhiều năm qua của dệt may.

Hạ tầng cho khâu dệt nhuộm và sản xuất vải còn hạn chế, chưa có quy hoạch không gian phát triển và xử lý nước thải có tập trung. Một số địa phương từ chối các dự án dệt nhuộm, cho rằng ngành dệt nhuộm gây ô nhiễm, dù nhà đầu tư khẳng định sẽ sử dụng công nghệ xử lý hiện đại, không tác động xấu đến môi trường.

Một trong những nguyên nhân là các chính sách được ban hành chưa đủ mạnh, chưa tương xứng với quy mô và vai trò của ngành. Nhà nước có một số chính sách ưu đãi cho ngành dệt may nhưng một thời gian dài mang tính dàn trải, không tập trung vào những công đoạn thực sự khó khăn, phức tạp (như dệt, nhuộm hoàn tất, công nghiệp phụ trợ…).

Vitas kiến nghị Chính phủ và các cơ quan nhà nước ban hành cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ giảm chi phí cho cộng đồng doanh nghiệp, xây dựng chính sách chế độ thuận lợi cho hoạt động và phát triển của doanh nghiệp trong ngành, các chính sách hỗ trợ phát triển năng lực cạnh tranh cho công nghiệp dệt may.

Trong đó chủ yếu là các chính sách hỗ trợ về tín dụng, nghiên cứu và phát triển (R&D), đào tạo nguồn nhân lực, chính sách khuyến khích nhập khẩu công nghệ cao, công nghệ sạch trong ngành dệt may.

Vitas kiến nghị Bộ Công Thương, các địa phương xây dựng các tổ hợp, khu công nghiệp dệt may lớn tại một số địa phương có đủ điều kiện, có hệ thống xử lý nước thải hiện đại, đảm bảo tính bền vững và an toàn cho môi trường, đáp ứng được những yêu cầu ngày càng khắt khe của pháp luật…

Ông Thân Đức Việt, Tổng giám đốc Tổng Công ty May 10 khẳng định, chỉ khi đủ chủng loại nguyên phụ liệu mới giúp các nhà thiết kế tạo nên những mẫu mã đẹp, chất lượng tốt và phù hợp nhu cầu sử dụng.

Do vậy, việc phát triển hơn nữa khâu thượng nguồn, thậm chí tự chủ nguyên phụ liệu là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp dệt may thực hiện “giấc mơ” cung ứng trọn gói, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm.

Châu Anh

Báo Lao động và Xã hội số 23

Tin liên quan