Dự án đường sắt tốc độ cao trục Bắc - Nam là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước.
Công trình mang tính biểu tượng
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam sẽ khởi công năm 2027, hoàn thành toàn tuyến vào năm 2035. Việc đưa dự án “về đích” trong chưa đầy 1 thập niên được đánh giá là thách thức lớn trước khối lượng công việc khổng lồ.

Tuyến đường sắt tốc độ cao có điểm đầu tại ga Ngọc Hồi (Hà Nội), điểm cuối tại ga Thủ Thiêm (TPHCM), tổng chiều dài khoảng 1.541km, đi qua 20 tỉnh, thành phố, trên tuyến xây dựng 23 ga khách, 5 ga hàng. Sơ bộ tổng mức đầu tư dự án ước hơn 1,7 triệu tỷ đồng, tương đương 67,34 tỷ USD.
Nguồn vốn đầu tư dự án được xác định từ ngân sách trung ương, vốn góp của các địa phương, huy động từ các nguồn chi phí thấp và ít ràng buộc. Trong quá trình xây dựng, vận hành, sẽ kêu gọi doanh nghiệp tham gia đầu tư các khu dịch vụ, thương mại tại các ga; đầu tư thêm phương tiện khi có nhu cầu.
Theo Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam là một trong những công trình biểu tượng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Các cơ quan chức năng đang nỗ lực thực hiện thành công dự án này. Cuối tháng 9/2024, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW, thống nhất chủ trương đầu tư toàn tuyến dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, với tốc độ thiết kế 350 km/giờ.
Đây là dự án có quy mô đặc biệt lớn, công nghệ mới và lần đầu triển khai, được kỳ vọng sẽ là bước đột phá lớn, mở ra không gian phát triển mới với bước tiến quan trọng, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam sánh vai cùng các nước phát triển.
Dự án sẽ tạo cơ hội lớn cho nhiều ngành kinh tế như sản xuất vật liệu xây dựng, sắt thép, xi măng và chế tạo cơ khí. Bên cạnh đó, các ngành liên quan đến công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và robot sẽ có vai trò quan trọng trong việc vận hành và quản lý hệ thống sau này. Dự án cũng giúp nâng cao năng lực của các doanh nghiệp xây dựng khi tham gia vào công trình lớn như thế này.
PGS, TS Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam chia sẻ: Dự án đường sắt tốc độ cao là dự án lịch sử, có ý nghĩa không chỉ về kinh tế mà còn cả về an ninh quốc phòng, chính trị và xã hội. Đây là ước mơ lớn của người dân Việt Nam, nhằm cải thiện hạ tầng giao thông, đồng thời thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, việc thực hiện dự án này đòi hỏi công nghệ rất hiện đại và trên thế giới chỉ một số ít quốc gia làm chủ được công nghệ này. Việt Nam đã phải nghiên cứu kỹ lưỡng và theo các chuyên gia kinh tế, thời điểm này là phù hợp để đầu tư và thúc đẩy sự phát triển đất nước.
Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực

Theo cơ quan chức năng, dự án đường sắt tốc độ cao dự kiến cần tới 180.000 người phục vụ công tác xây dựng, 13.880 người vận hành và khai thác, 700 người làm việc trong các cơ quan quản lý và đội ngũ kỹ sư tư vấn. Đào tạo nguồn nhân lực là một trong những yếu tố then chốt quyết định sự thành công của dự án trọng điểm quốc gia này.
Chính phủ đã chỉ đạo triển khai xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực đường sắt; đối với đường sắt tốc độ cao, đề xuất chương trình đào tạo nguồn nhân lực theo 3 loại hình: đào tạo trong nước, nước ngoài, kết hợp đào tạo trong và ngoài nước với 4 cấp trình độ (công nhân kỹ thuật, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ cho 5 chủ thể: cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị quản lý dự án, đơn vị vận hành khai thác, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu).
Trước vấn đề đòi hỏi nâng cao chất lượng, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển đường sắt, Bộ Giao thông Vận tải ban hành Chỉ thị số 06/CT-BGTVT về tăng cường công tác quản lý các trường, học viện thuộc Bộ.
Trong đó, Bộ yêu cầu các trường, học viện rà soát, nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo các ngành, nghề cốt lõi, phục vụ ngành giao thông vận tải; phối hợp các cơ quan, đơn vị liên quan nghiên cứu, xây dựng, phát triển các chương trình đào tạo theo định hướng phát triển giao thông vận tải đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và các yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đặc biệt lưu ý đào tạo nhân lực đường sắt đô thị, đường sắt tốc độ cao...
Bộ cũng yêu cầu Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải chủ động, phối hợp các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng định hướng phát triển nhân lực ngành giao thông vận tải.
Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam chủ động liên doanh với các nước có nền công nghiệp đường sắt phát triển, cử nhân lực học tập và hợp tác xây dựng các mô hình tổ chức, cũng như cơ sở vật chất để sẵn sàng tiếp nhận các khâu quản lý, khai thác, vận hành.
Ngành đường sắt sẽ tận dụng, phát huy lợi thế và nâng cao chất lượng trên cơ sở đã có 2 nhà máy xe lửa Gia Lâm (Hà Nội) và Dĩ An (Bình Dương), với tỷ lệ nội địa hóa với đường sắt hiện hữu lên tới 70 - 80%.
Hiện với khoảng 2.000 doanh nghiệp xây dựng trên cả nước, trong đó nhiều doanh nghiệp có quy mô vốn chủ sở hữu trên 1.000 tỷ đồng, đều từng tham gia nhiều dự án xây dựng hạ tầng trọng điểm quốc gia cũng là bề dày kinh nghiệm đáng kể cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.
Với vai trò là trường đại học lớn đào tạo nhân lực hàng đầu của ngành giao thông vận tải, Trường Đại học Giao thông Vận tải TPHCM tự hào là cơ sở đầu tiên của Việt Nam đào tạo và tiếp cận công nghệ đường sắt tốc độ cao. Từ năm 2008, trường bắt đầu đào tạo ngành đường sắt metro.
Những năm qua, lãnh đạo nhà trường đã trực tiếp và cử nhiều đoàn công tác sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, châu Âu tìm hiểu về đường sắt tốc độ cao. Với những kinh nghiệm cùng thực tiễn tích lũy được, đầu tháng 10/2024, trường chính thức công bố thành lập Viện Đường sắt tốc độ cao.
PGS, TS Nguyễn Anh Tuấn, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Giao thông Vận tải TPHCM khẳng định, đây chính là thời điểm chín muồi để trường triển khai công tác đào tạo về đường sắt tốc độ cao. Việc ra đời của Viện ở thời điểm này mang ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng về vai trò của trường đối với sự phát triển của hạ tầng giao thông Việt Nam.
Tại Hà Nội, Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải đã và đang tích cực xây dựng nhiều chương trình đào tạo mới, phù hợp nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành đường sắt. Đồng thời rà soát, điều chỉnh các chương trình đào tạo phù hợp triết lý “Ứng dụng - thực học - thực nghiệp” của nhà trường.
Các chương trình đào tạo với thời lượng thực hành, thực tập chiếm hơn 40% thời gian, giúp người học có thể tiếp cận công việc ngay khi tốt nghiệp. Thêm nữa, trong năm 2025, trường sẽ mở mới nhiều chương trình đào tạo liên quan đường sắt tốc độ cao như: Xây dựng đường sắt tốc độ cao, tàu điện cao tốc, quản lý và điều hành vận tải đường sắt tốc độ cao...
PGS, TS Nguyễn Hoàng Long, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải chia sẻ, trường đã hợp tác với 28 đơn vị trong nước và trường đại học nước ngoài để nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ giảng viên.
Hy vọng 15, 20 năm tới, đường sắt tốc độ cao sẽ trở thành biểu tượng của sự phát triển đất nước. Khi đó, người dân Việt Nam có thể tự hào về một hệ thống giao thông hiện đại, không chỉ tiện lợi mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững cho nhiều thế hệ sau.
Khánh Thảo
Báo Lao động và Xã hội Xuân Ất Tỵ







