Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh không chỉ là tuyến hậu cần chiến lược, là hậu phương của chiến trường miền Nam mà còn là tuyến vận tải đảm bảo chi viện đắc lực cho chiến trường Lào và Campuchia.
Các chiến sĩ Trường Sơn đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, làm nên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong ký ức của Thiếu tướng Võ Sở, nguyên Phó Tư lệnh chính trị Binh đoàn 12, Chủ tịch Hội truyền thống Trường Sơn đường Hồ Chí Minh Việt Nam, con đường Trường Sơn gian khổ, ác liệt song cũng đầy vinh quang và tự hào:
“Chiến trường lớn nên phải tập trung mở đường, muốn chi viện vào Nam phải có đường mới có thể đưa ô tô, lương thực, vũ khí, đạn dược vào chiến trường. Đã có 2,5 triệu thanh niên xung phong, hàng chục lượt đơn vị từ cấp trung đoàn, sư đoàn bổ sung, chi viện cho chiến trường miền Nam”.
Thiếu tướng Võ Sở cho biết, địch tập trung đánh phá ác liệt trong 10 năm, từ năm 1965 - 1975, không quân Mỹ đã thả xuống đường Trường Sơn trên 4 triệu tấn bom đạn đủ loại, gấp đôi tổng số bom đạn dùng trong chiến tranh thế giới thứ 2.
Trước tình hình đó, bộ đội Trường Sơn huy động toàn bộ lực lượng, tổ chức thành các binh chủng, bộ đội xe, công binh, bộ đội pháo... xác định tư tưởng quyết tâm đánh địch, tất cả vì miền Nam ruột thịt. Bộ đội Trường Sơn đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành.
Đường Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ và ngày càng vươn sâu đến các mặt trận, các chiến trường, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ vận tải chi viện chiến lược từ miền Bắc vào miền Nam và giúp cách mạng hai nước Lào, Campuchia.
Từ năm 1973 - 1975, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã có lực lượng hùng hậu với 9 sư đoàn binh chủng cùng 21 trung đoàn binh chủng trực thuộc; quân số hơn 10 vạn cán bộ, chiến sĩ và hơn 1 vạn thanh niên xung phong.
Ngày ấy, Bộ đội Trường Sơn mang trên vai trách nhiệm mà Đảng, nhân dân và quân đội giao cho, với tâm nguyện tất cả vì miền Nam ruột thịt, quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh để làm tròn nhiệm vụ.
Bộ đội Trường Sơn chiến đấu với “Binh chủng hợp thành” gồm đủ các lực lượng: Vận tải, công binh, cao xạ, bộ binh, xăng dầu, thông tin, giao liên... tất cả đều hừng hực chung một ý chí quyết tâm “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”.
Để cho tuyến chi viện chiến lược không một ngày ngừng nghỉ, tất cả đã cùng nhau bám trụ, chiến đấu kiên cường, chống lại sự đánh phá, ngăn chặn khốc liệt của Mỹ - ngụy với đủ loại vũ khí, trang thiết bị quân sự hiện đại nhất thế giới lúc bấy giờ.
“Ở Trường Sơn, không một ngày nào là không có tiếng bom đạn; từng cung đường, trọng điểm, từng vạt rừng, bờ suối bị cày xới bởi hàng triệu tấn bom đạn, hàng chục triệu lít chất độc hóa học. Ở đó, đất đá trộn lẫn gang thép, thấm đẫm mồ hôi và máu của những người lính Trường Sơn quả cảm.
Mỹ - ngụy đã lấy sức mạnh quân sự khủng khiếp hòng hủy diệt sức sống Trường Sơn, bóp nghẹt tuyến chi viện của ta. Nhưng chúng đâu ngờ rằng, bom đạn, chết chóc chỉ làm cho những chiến sĩ Trường Sơn ý chí thêm vững vàng, tinh thần thêm sắt đá, quyết giữ vững tuyến vận tải chiến lược, cùng đồng bào và chiến sĩ miền Nam “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, thỏa lòng mong đợi của Bác Hồ kính yêu và nhân dân cả nước”, Tướng Võ Sở nói.
16 năm “xoi (*) đường, lập trạm”
Thiếu tướng Võ Sở nhớ lại, trên dải Trường Sơn đã có hàng chục, hàng trăm câu chuyện vô cùng cảm động về sự hy sinh dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến. Cuối năm 1968, ở Binh trạm 32, địch ném bom trúng trận địa phòng không, gần 50 chiến sĩ cao xạ hy sinh.
Ở Binh trạm 31, một loạt bom đã chôn vùi 12 chiến sĩ công binh trong hang núi Seng Phan. Để kéo được 30 phi xăng ngược suối Trạ Ang, 29 chiến sĩ Binh trạm 14 đã hy sinh anh dũng.
Năm 1972, Tiểu đoàn Ca nô 166 tham gia Chiến dịch giải phóng Quảng Trị, có 50 chiến sĩ hy sinh; trong đó có ca nô hy sinh cả 5 người; nhiều đồng chí đến nay vẫn chưa tìm thấy hài cốt.
Đầu tháng 3/1973, chỉ một ngày sau Hiệp định Paris được ký, bom B52 của địch đã đánh vào sở chỉ huy Trung đoàn 592 trên đất Lào, 20 chàng trai, cô gái đã hy sinh, mãi mãi gửi lại tuổi thanh xuân trên dải Trường Sơn.
“Chúng tôi đã phải chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn trăm bề và khí hậu khắc nghiệt của núi rừng Trường Sơn. Cái ác liệt của bom đạn quân thù thì nhiều người đã biết nhưng với người lính Trường Sơn, ở nhiều khu vực còn có điều đáng sợ nữa, đó là sốt rét và đói.
Với lính Trường Sơn, phải mặc quần áo ướt hàng tuần, ăn măng le, củ chuối thay cơm là chuyện thường nhưng hàng đảm bảo cho chiến trường thì không tơ hào một cân, một lạng.
Cuối năm 1964, do tuyến vận tải gặp khó khăn, mấy nghìn cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 70 bị thiếu đói, nhưng được nhân dân ở các huyện Cà Lươn, Sê Ca Mán, tỉnh Tà Ven Oọc, thuộc nước bạn Lào thu gom thóc gạo cứu đói, ơn nghĩa ấy chúng tôi không bao giờ quên.
Còn nhớ mùa mưa năm 1966, trong một lần xuống nắm tình hình ở Binh trạm 6, tôi chứng kiến gần như 100% quân số binh trạm bị sốt rét. Ban Chỉ huy binh trạm cùng quân y ở đây đã sử dụng những viên ký ninh cuối cùng. Quân nhu tập trung nuôi dưỡng, đồng thời cấp báo lên Bộ Tư lệnh 559.
Nhưng binh trạm ở tuyến cuối, mùa lũ đang hồi cao điểm, vận chuyển vô cùng khó khăn. Gần hết mùa mưa, thuốc mới vào đến nơi. Thật đau lòng, đói thuốc, đói gạo, sốt rét hoành hành đã cướp đi của Binh trạm 6 gần 50 cán bộ, chiến sĩ”, Thiếu tướng Võ Sở kể.
16 năm kể từ khi “xoi đường, lập trạm” đến ngày giải phóng, trên 2 vạn cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn đã hy sinh và vẫn còn những người lính nằm lại đâu đó trên đại ngàn Trường Sơn.
Trên 3 vạn người bị thương, hàng vạn người nhiễm chất độc da cam để lại nỗi đau giày vò đến tận hôm nay cho nhiều thế hệ. Trong gian khổ, ác liệt, hy sinh, những người lính Trường Sơn vẫn chiến đấu quả cảm, kiên cường, dẻo dai, sẵn sàng hy sinh vì đồng đội, vì nhiệm vụ. Chính họ là những người làm nên lịch sử, làm nên kỳ tích Trường Sơn, kỳ tích của những người lính Cụ Hồ.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Bộ đội Trường Sơn đã nhanh chóng bảo đảm đưa các quân đoàn, sư đoàn chủ lực của ta vào chiến trường để làm nên Đại thắng mùa Xuân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến công ấy là một kỳ tích vĩ đại của dân tộc ta, là niềm tự hào của Bộ đội Trường Sơn cùng hàng vạn thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và nhân dân các dân tộc trên dãy Trường Sơn.
(*) Xoi đường: Mở thông đường xuyên qua những trở ngại.
Ngày 19/5/1959, Thường trực Tổng Quân ủy Trung ương đã chính thức giao nhiệm vụ cho Đoàn 559 – “Đoàn công tác Quân sự Đặc biệt”, do Thượng tá Võ Bẩm làm Đoàn trưởng, có nhiệm vụ mở đường Trường Sơn, chi viện cho cách mạng miền Nam. Năm 1965, Đoàn 559 trở thành Bộ Tư lệnh 559. Từ thời điểm này, Bộ Tư lệnh 559 đã chuyển từ vận chuyển chi viện cho chiến trường bằng gùi thồ sang vận chuyển chủ yếu bằng cơ giới. Ngày 29/7/1970, Bộ Tư lệnh 559 phát triển thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Từ đây, Trường Sơn chính thức trở thành chiến trường quan trọng và rộng lớn trải rộng trên địa bàn của 11 tỉnh Việt Nam, 7 tỉnh Nam Lào và 4 tỉnh đông bắc Campuchia, thống nhất chỉ huy các lực lượng của Việt Nam hoạt động ở Trung và Hạ Lào. 16 năm chiến đấu anh dũng, bộ đội Trường Sơn đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”, được tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao Vàng cao quý; 82 đơn vị và 47 cá nhân được tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” cùng nhiều phần thưởng cao quý khác… |
Khánh Vân
Báo Lao động Xã hội số 59