Quay lại Dân trí
Dân Sinh

Cả nước có 2.500 cơ sở an toàn, chuỗi sản phẩm khép kín, vùng an toàn dịch bệnh

(Dân sinh) - Sáng 9/11, trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết, Quý 3/2021, Việt Nam sẽ có vắc xin dịch tả lợn châu Phi để sử dụng.

Đại biểu Mai Sỹ Diến - Đoàn Thanh Hóa nêu vấn đề về trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT trong chỉ đạo nghiên cứu vắc xin dịch tả lợn Châu Phi và xây dựng chương trình phát triển chăn nuôi an toàn dịch bệnh giai đoạn 2020-2030.

Cả nước có 2.500 cơ sở an toàn, chuỗi sản phẩm khép kín, vùng an toàn dịch bệnh - Ảnh 1.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết, về việc chỉ đạo nghiên cứu sản xuất ra vắc-xin dịch tả lợn châu Phi, khi dịch bệnh tả lợn châu Phi xảy ra, với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN&PTNT đã cùng với các địa phương luôn chỉ đạo sát sao, kịp thời ứng phó với tình hình, diễn biến khó lường của dịch bệnh. Bộ đã nhanh chóng xây dựng các kịch bản và các nhóm giải pháp phòng, chống khẩn cấp, ngắn hạn và dài hạn sát với thực tiễn. Một trong các nhóm giải pháp có tính chiến lược, lâu dài và bền vững đó là nghiên cứu để chúng ta sản xuất được vaccine.

Ngay sau khi dịch bệnh xảy ra, Bộ đã huy động một lực lượng lớn các nhà khoa học thuộc các trường, viện, các doanh nghiệp trong và ngoài ngành, đồng thời cùng với Bộ KH&CN chỉ đạo triển khai ngay các nhiệm vụ nghiên cứu đến các đơn vị. Tất cả các đơn vị, các nhà khoa học của chúng ta đã tập trung mọi điều kiện cho công tác nghiên cứu. Cùng với đó, Bộ đã tích cực huy động sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như OIE, FAO, cũng như hợp tác trực tiếp với các cơ quan nông nghiệp của nước ngoài để tập trung triển khai nhiệm vụ này.

Bộ đã phân công một đồng chí Thứ trưởng trực tiếp phụ trách, đôn đốc các nhiệm vụ khoa học này, thành lập 1 Hội đồng khoa học, 13 nhà khoa học gồm các giáo sư đầu ngành về lĩnh vực này để để cùng với Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Bộ làm nhiệm vụ thường trực đôn đốc. Đến nay, với những nhiệm vụ triển khai trên, nhánh nghiên cứu trong nước đã đạt được những kết quả bước đầu tích cực. Việt Nam đã phân lập, lựa chọn và hình thành ngân hàng các virus dịch tả lợn châu Phi tại Việt Nam để làm cơ sở cho các hoạt động nghiên cứu, sản xuất tiếp theo. Cùng với đó, giải trình tự gen của các chủng virus để phục vụ cho nghiên cứu chuyên sâu, sản xuất vắc-xin và chế phẩm sinh học phục vụ cho công tác xét nghiệm.

Đồng thời, nghiên cứu dịch tễ để làm cơ sở xây dựng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học và các giải pháp phòng, chống bệnh. Việt Nam cũng đã sản xuất được một số chế phẩm sinh học dùng trong chăn nuôi lợn để nâng cao sức đề kháng, kìm hãm sự phát triển của dịch bệnh, đảm bảo an toàn sinh học và xử lý môi trường.

Đặc biệt, Việt Nam đã sản xuất được một số lô vắc-xin các loại khác nhau, trong đó có lô vắc-xin vô hoạt và lô vắc-xin nhược độc. Bước đầu thử nghiệm ở quy mô hẹp cho kết quả khả quan, các nhà khoa học đang hoàn thiện quy trình công nghệ để sản xuất vắc-xin thử nghiệm ở quy mô lớn hơn thời gian tới.

Bộ trưởng cũng cho biết, Việt Nam đã nghiên cứu chọn tạo dòng lợn kháng được bệnh dịch tả lợn Châu Phi. Theo đó, đã chọn lọc được 85 lợn nái sống sót ở các ổ dịch lớn, có kháng thể, hiện đang còn sống, sinh sản ở thế hệ vừa qua tốt, thế hệ con sinh ra cũng có các kháng thể dịch tả lợn Châu Phi. Đây là một trong những tiền đề để tới đây chúng ta hướng chọn tạo dòng lợn có khả năng kháng tự nhiên.

Về nhánh hợp tác quốc tế. Ngay sau khi Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ công bố kết quả nghiên cứu sản xuất được vắc-xin dịch tả lợn Châu Phi vào tháng 9/2019 thì Bộ NN&PTNT đã chủ động đề xuất hợp tác, mời các nhà khoa học của Hoa Kỳ sang Việt Nam và chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu, cũng như các doanh nghiệp trong nước phối hợp tập trung triển khai. "Cho đến nay, Việt Nam đã tiếp nhận được chủng virus dịch tả lợn Châu Phi của phía bạn chuyển giao, cùng với quy trình công nghệ và đã sản xuất được lô vắc-xin bước đầu thử nghiệm trên lợn cho kết quả rất khả quan. Theo báo cáo của các chuyên gia và các doanh nghiệp tiếp nhận chuyển giao, nếu điều kiện thuận lợi, khoảng quý 3/2021, chúng ta có vắc xin để sử dụng", Bộ trưởng Cường thông tin.

Cùng với việc chủ động nghiên cứu để sản xuất vắc-xin, Bộ đã chỉ đạo tổng kết nhân rộng mô hình chăn nuôi lợn, ứng dụng các chế phẩm sinh học cho kết quả tốt. Hiện nay có 2 doanh nghiệp đã chuyển giao các chế phẩm để hỗ trợ công tác chăn nuôi an toàn sinh học là Tập đoàn Quế Lâm, Tập đoàn BAF.

Hiện nay, tới 351 cơ sở chăn nuôi lợn của 36 tỉnh được áp dụng quy trình này là khoảng 100.000 con lợn. Qua áp dụng công nghệ này, đàn lợn sinh trưởng tốt, không có bệnh xảy ra, đặc biệt chế phẩm với EM của Tập đoàn Quế Lâm, do một đồng chí cựu chiến binh của chúng ta 72 tuổi. Như vậy, chế phẩm với công nghệ nguồn của Nhật Bản và cho áp dụng hiện nay, tỉnh Thừa Thiên Huế là một địa bàn áp dụng rất nhiều hộ, khoảng gần 200 hộ áp dụng chỗ này. Chúng tôi trực tiếp kiểm tra 3 lần thì thấy áp dụng quy trình sử dụng OIE phối hợp trong lĩnh vực chăn nuôi sẽ đảm bảo an toàn sinh học, đặc biệt quy mô hộ nhỏ thì sẽ phù hợp. Từ tình hình này, chúng tôi đã tổng kết thành quy trình chỉ đạo các địa phương hướng dẫn bà con nông hộ trong khi chưa có vắc xin thì áp dụng quy trình này.

Đến tháng 10/2020 cả nước đã xây dựng thành công 2.500 cơ sở an toàn, chuỗi sản phẩm khép kín, vùng an toàn dịch bệnh với tổng số khoảng 400 triệu con gia súc, gia cầm tại 22 vùng cấp huyện, 109 vùng cấp xã và trên 2400 cơ sở riêng biệt. Riêng Thanh Hóa, có 56 cơ sở, nhiều doanh nghiệp chăn nuôi quy mô lớn đã xây dựng được các chuỗi chăn nuôi khép kín, an toàn dịch bệnh, đáp ứng yêu cầu của xuất khẩu chăn nuôi như chăn nuôi lợn thì Công ty GreenFeed, CP Max Mavin, chăn nuôi gà Công ty cổ phần Hùng Nhân Kaguya Kit Việt San, ... các công ty chăn nuôi bò sữa xuất khẩu.

Tại Thanh Hóa, có chuỗi sản xuất thịt gà của Công ty Cổ phần Phú Gia cũng nằm trong số đơn vị này. Đến năm 2025, Việt Nam phấn đấu có 50 vùng an toàn liên huyện, có trên 10.000 cơ sở riêng biệt, đảm bảo an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm để phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.