Công đoàn cần thể hiện giá trị bảo vệ người lao động
Nhìn nhận về vai trò, hiệu quả hoạt động của Công đoàn Việt Nam (CĐVN) trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động tại doanh nghiệp hiện nay, TS. Chang Hee Lee khẳng định: “Tôi tin rằng CĐVN đã làm hết sức mình để đại diện người lao động và bảo vệ quyền lợi của họ. Tuy nhiên, hiện nay, trong bối cảnh cải cách kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế sâu rộng, CĐVN nên hướng sự tập trung vào chức năng căn bản của mình là đại diện và bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Chỉ khi công đoàn đại diện cho tiếng nói của người lao động một cách hiệu quả, hợp tác chặt chẽ với chủ sử dụng lao động, lúc đó công đoàn mới có thể thực sự đóng góp cho sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế”.
Tại doanh nghiệp, phần lớn thời gian, công đoàn phối hợp chặt chẽ với chủ sử dụng lao động. Nhưng có lúc công đoàn cần đấu tranh với chủ sử dụng lao động để bảo vệ và thúc đẩy quyền và lợi ích của người lao động. Đó chính là lúc công đoàn thể hiện giá trị của mình.
Bộ luật Lao động 2019 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021 có những điểm cải tiến quan trọng liên quan đến vấn đề này. Bộ luật đưa ra những điều khoản chặt chẽ hơn nhằm phòng chống các hành vi không công bằng trong lao động. Ngoài ra, Bộ luật không cho phép nhân sự quản lý cấp cao tham gia tổ chức công đoàn (hoặc tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp, như đã đề cập trong Bộ luật Lao động 2019) và cần có sự tách biệt giữa công đoàn và ban quản lý doanh nghiệp.
“Tôi hy vọng rằng công đoàn sẽ có thể áp dụng hiệu quả những điều khoản pháp lý này để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động”, TS. Chang Hee Lee bày tỏ.
Đánh giá về những nỗ lực đổi mới của CĐVN trong những năm qua để đại diện cho quyền lợi của người lao động tốt hơn, Giám đốc ILO Việt Nam nêu 2 ví dụ.
Thứ nhất, nhìn vào thỏa ước lao động tập thể khoảng 10-20 năm trước có thể thấy, đó chỉ đơn thuần là việc ký kết các thỏa thuận mà không có thương lượng thực chất giữa người lao động và chủ sử dụng lao động. Nhưng giờ đây, quá trình thương lượng thực sự giữa hai bên đã diễn ra ở khá nhiều doanh nghiệp, dù không phải ở tất cả.
Trước kia, thỏa ước lao động tập thể chỉ được thỏa thuận ở cấp doanh nghiệp. Nhưng hiện nay, tại nhiều địa phương đã có thỏa ước lao động tập thể nhóm doanh nghiệp. Điều kiện lao động trong cùng một ngành và ở cùng một địa phương tương đối giống nhau. Vì thế, không có lý do gì để tổ chức đàm phán tại từng doanh nghiệp đơn lẻ. Do đó, thỏa ước lao động tập thể nhóm doanh nghiệp là một bước tiến, một điểm đổi mới quan trọng của công đoàn.
“Theo tôi, đây là sự phát triển theo hướng đi đúng đắn và tôi rất khuyến khích điều này. Nếu CĐVN có thể thực hiện nhanh hơn và có hệ thống hơn theo hướng này, điều đó sẽ tốt hơn không chỉ cho người lao động Việt Nam, mà còn cho cả xã hội Việt Nam”, TS. Chang Hee Lee đánh giá.
Một ví dụ ông Chang Hee Lee đưa ra là nghiệp đoàn. Nghiệp đoàn là một loại hình công đoàn của những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, như người lao động làm việc tại các hiệu cắt tóc hay lái xe xích lô. Do quy mô của cơ sở kinh doanh nhỏ, rất khó có thể thành lập công đoàn tại từng cơ sở như vậy. Vì thế, người lao động tham gia nghiệp đoàn theo địa phương hoặc theo ngành nghề. Hình thức tổ chức này đã tồn tại tronghệ thống CĐVN suốt nhiều năm qua, nhưng lại chưa được ghi nhận và hỗ trợ đầy đủ. Loại hình công đoàn này nên được khuyến khích và hỗ trợ do hiện có nhiều người lao động trong nhóm này và hầu hết là những người lao động dễ bị tổn thương.
Hỗ trợ người lao động đàm phán tiền lương tốt hơn
Theo đánh giá của ông Chang Hee Lee, chính sách tiền lương là lĩnh vực mà CĐVN thực hiện tốt nhiệm vụ đại diện cho quyền lợi của người lao động trong quá trình điều chỉnh mức lương tối thiểu.
Kể từ năm 2013, Hội đồng Tiền lương Quốc gia được thành lập, mức lương tối thiểu được xác lập thông qua tham vấn và đôi khi là cả thương lượng giữa 3 bên: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; VCCI và các hiệp hội doanh nghiệp khác đại diện cho doanh nghiệp. Tại các phiên họp của Hội đồng Tiền lương Quốc gia, Tổng LĐLĐVN luôn đề nghị Chính phủ và các bên khác phải hướng tới cải thiện cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi điều chỉnh tiền lương tối thiểu. Họ luôn đại diện cho tiếng nói của người lao động trong tiến trình điều chỉnh mức lương tối thiểu.
“Về thỏa ước lao động tập thể, so với 10 năm trước đây, tôi có thể thấy sự tiến bộ trong lĩnh vực này. Nhiều doanh nghiệp đã có thỏa ước thương lượng tập thể và có thêm nhiều thỏa ước có các điều khoản ở mức cao hơn so với yêu cầu tối thiểu của pháp luật. Nhưng có một điểm thường bị thiếu ở phần lớn các thỏa ước lao động tập thể, đó chính là tiền lương”, TS. Chang Hee Lee nhận định.
Tiền lương là kết quả của thương lượng tập thể, có vai trò quan trọng không chỉ giúp cải thiện điều kiện làm việc, điều kiện sống của người lao động và gia đình họ, mà còn giúp chia sẻ phồn thịnh trong toàn xã hội và nền kinh tế. Khi tiền lương được xác lập thông qua thương lượng tập thể, người lao động có thể dành được phần phân chia lớn hơn từ việc tăng năng suất lao động của công ty, nhờ có được năng lực thương lượng mạnh hơn, so với trường hợp tiền lương không được xác lập thông qua thương lượng tập thể. Điều này bảo đảm sự phân chia công bằng hơn về thành quả kinh tế giữa chủ sử dụng lao động và người lao động.
Việt Nam có tham vọng vươn lên từ một quốc gia thu nhập trung bình thấp trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao. Để đạt được vị thế đó, Việt Nam không thể chỉ dựa vào đòn bẩy xuất khẩu mà còn phải dựa cả vào động cơ quan trọng là tiêu dùng nội địa để phát triển kinh tế.
Cầu nội địa đến từ tiêu dùng nội địa bởi chính người dân Việt Nam, mà phần lớn là người lao động. Vì thế, sức mua của người lao động tăng cao hơn đóng vai trò quan trọng và sức mua cao hơn đến chính từ tiền lương cao hơn.
TS. Chang Hee Lee nêu ví dụ, với COVID-19, ngành du lịch Việt Nam đã khám phá lại được giá trị của khách du lịch nội địa. Việt Nam cần khám phá lại tầm quan trọng của người lao động không chỉ ở cương vị của người làm ra sản phẩm, mà còn ở cương vị người tiêu dùng. Họ chính là một trong 2 động cơ của phát triển kinh tế song hành với động cơ còn lại là người tiêu dùng nước ngoài mua hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Như vậy, nếu công đoàn có thể đại diện cho tiếng nói của người lao động tốt hơn, đàm phán tiền lương tốt hơn thì có thể góp phần tạo ra một thị trường nội địa lớn hơn và sự phát triển kinh tế cân bằng hơn, dẫn tới sự tăng trưởng bền vững hậu COVID-19.