Rời chiến trường với thương tật 81%, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có người chăm sóc, ông Bùi Công Tuyển đã lựa chọn Trung tâm Điều dưỡng thương binh nặng Thanh Hóa (nay là Trung tâm Chăm sóc, nuôi dưỡng người có công tỉnh Thanh Hóa) làm bến đỗ trong quãng đời còn lại của mình.
Tưởng rằng cuộc đời sẽ mãi như vậy nhưng hạnh phúc đã “ra hoa, kết trái” khi nữ y tá Lê Thị Ninh - người có trái tim nhân hậu đã nguyện gắn bó trọn đời cùng ông...

Anh dũng trong chiến đấu
Hơn 40 năm kể từ ngày lên đường nhập ngũ, trong ký ức người lính Bùi Công Tuyển (SN 1964, xã Minh Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa) vẫn in đậm những năm tháng chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh, mất mất…
Hồi tưởng lại quá khứ, trong câu chuyện kể lại cho tôi nghe về cuộc đời mình, ông Tuyển cho biết ngày còn nhỏ, ông đã rất yêu mến bộ đội đặc công qua những chiến tích oai hùng. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, năm 1982, khi có đợt tuyển quân vào đơn vị đặc công, ông đã viết đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ lúc đang học dở lớp 7.
Sau đợt nhập ngũ ấy, ông Tuyển được biên chế vào Tiểu đoàn 27, Trung đoàn 113 trực thuộc Bộ Tư lệnh Đặc công. Gần 1 năm huấn luyện, cuối năm 1983, ông Tuyển được cử đi tham gia chiến đấu tại phía Tây Nam Tổ quốc, mặt trận 479 tại chiến trường Campuchia. Đơn vị ông lấy phiên hiệu là Đoàn A5, giúp nước bạn Campuchia bảo vệ nền độc lập.
“Ngày 28/4/1984, đơn vị trinh sát đặc công của tôi được cử đi trước mai phục, tuần tiễu đường biên. Trong quá trình trinh sát, chúng tôi bị vào ổ phục kích của địch. Trận đánh ác liệt hôm đó làm 7 đồng chí hy sinh, trong đó có 2 đồng chí A trưởng. Khi địch rút lui thì gặp Đại đội 2 của mình phục kích lại. Cả đơn vị địch gần 30 người đã bị ta tiêu diệt hoàn toàn nhưng thêm 8 đồng chí bên ta hy sinh, có những đồng chí không còn nhận dạng được thi thể nên ai cũng đau xót…”, ông Tuyển nhớ lại.

“Chiến trường Campuchia thời điểm đó rất ác liệt, các bãi mìn dày đặc giữa ta và địch chồng lấn lên nhau trên các trận tuyến. Đơn vị đặc công của tôi lúc đấy chủ yếu luồn sâu vào trong căn cứ địch, gài mìn, phá hoại từ trong. Mùa khô 1984 - 1985, trong một lần cùng đồng đội đi tuần tra chốt tiền tiêu, tôi đạp trúng mìn. Do vết thương quá nặng, đơn vị phải dùng máy bay trực thăng đưa thẳng từ biên giới về Sài Gòn điều trị…”, ông Tuyển kể.
Sau thời gian điều trị ổn định tại Sài Gòn, năm 1987, ông Tuyển phục viên trở về quê hương với thương tật 81%. Do điều kiện gia đình khó khăn, mẹ đã cao tuổi, nhà chỉ có 3 chị em khó bề chăm nom trong lúc ốm đau, ông Tuyển quyết định lựa chọn Trung tâm Điều dưỡng thương binh nặng Thanh Hóa làm bến đỗ trong quãng đời còn lại.
Đến chuyện tình đẹp nữ y tá - thương binh
Tưởng rằng cuộc sống không có người thân, gia đình sẽ theo ông Bùi Công Tuyển suốt cuộc đời còn lại ở Trung tâm, nhưng bằng tình thương chân thành, trách nhiệm và sự tri ân, nữ y tá Lê Thị Ninh (SN 1963, quê ở phường Long Anh, TP Thanh Hóa), người trực tiếp chăm sóc đã nguyện gắn bó trọn đời cùng ông.
“Ngày về Trung tâm, tôi cũng lo lắng lắm bởi tuổi còn quá trẻ mà thương tật lại cao, không biết tương lai ra sao. Cái chất của lính đặc công là gan dạ, tinh nghịch nhưng bây giờ mất một bên chân đi lại khó khăn, một bên mắt bị hỏng không nhìn được. Tôi đã xác định “sống đời, ở kiếp” tại Trung tâm. Bà Ninh khi ấy cũng rất trẻ, là người được giao chăm sóc tôi, vì cái duyên mà sau này chúng tôi đã trở thành vợ chồng…”, ông Tuyển tâm sự.

Nói về duyên vợ chồng với thương binh Bùi Công Tuyển, bà Lê Thị Ninh cho biết: “Năm 1983 tôi đi công nhân Công ty Cầu đường 2 ở Thanh Hóa. Năm 1987, chuyển về Trung tâm Điều dưỡng thương binh nặng Thanh Hóa làm công việc chăm sóc thương binh, trong đó có anh trai ruột của tôi.
Lãnh đạo Bộ LĐ-TB&XH trong một lần về thăm Trung tâm đã chia sẻ với chúng tôi rằng, các thương binh là tài sản quốc gia. Các cô, các chú phải cố gắng chăm sóc chu đáo như người thân trong gia đình, ai là vợ thương binh thì sẽ vất vả hơn, phải cố gắng chăm sóc, nâng niu hơn.
Tôi cũng đã suy nghĩ rất nhiều về câu nói ấy. Các thương binh đã mất một phần xương máu nơi chiến trường nên mình phải chăm sóc tận tình, chu đáo như chính người thân trong gia đình để bù đắp lại những mất mát đó. Sau khi chăm sóc ông Ninh một thời gian, tôi đã có tình cảm đặc biệt với ông ấy. Anh em cán bộ Trung tâm, các thương binh biết đã rất ủng hộ. Bằng tình thương chân thành, trách nhiệm, sự tri ân, tôi đã nguyện trọn đời chăm sóc ông ấy”.
Năm 1988, bà cùng ông Tuyển chính thức nên vợ chồng. Ngày thành hôn vì điều kiện gia đình khó khăn, Trung tâm đã đứng ra làm hai mâm cơm dành cho nội - ngoại gặp mặt; một bữa tiệc trà với kẹo, bánh, thuốc lá được tổ chức ngay tại hội trường dưới sự chứng kiến của cán bộ Trung tâm cùng các thương binh tại đây.
“Ngày đó, gia đình hai bên đều khó khăn, cũng may vợ chồng tôi được Trung tâm đứng ra tổ chức cưới. Không chỉ tôi, đến 5 - 6 cán bộ trong Trung tâm cũng nên duyên vợ chồng với các thương binh đang điều trị ở đây…”, bà Ninh kể.
Năm 1990, ông Tuyển và bà Ninh dành dụm được ít tiền mua thửa đất nhỏ, dựng lên ngôi nhà riêng ngay cạnh Trung tâm.
Hiện ông, bà sống hạnh phúc với 2 người con cùng các cháu. Nối nghiệp cha, người con trai công tác trong quân đội, phục vụ đất nước, nhân dân. Theo nghề mẹ, người em gái vào làm việc tại Trung tâm để chăm sóc, phục vụ các thương, bệnh binh, những người đã cống hiến, hy sinh vì nền độc lập dân tộc…
Quách Tuấn
Báo Lao động và Xã hội số Kỷ niệm 79 năm Quốc khánh 2/9, Ngày truyền thống ngành LĐ-TB&XH 28/8