Bộ LĐ-TB&XH cho biết, thực hiện Bộ luật Lao động năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 49/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương (Chương II quy định Hội đồng Tiền lương quốc gia). Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1055/QĐ-TTg ngày 3/7/2013 thành lập Hội đồng tiền lương quốc gia, trong đó quy định Hội đồng tiền lương quốc gia gồm 15 thành viên: 5 thành viên là đại diện của Bộ LĐ-TB&XH, 5 thành viên đại diện của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, 5 thành viên đại diện của tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở trung ương. Hội đồng Tiền lương quốc gia thực hiện chức năng tư vấn, khuyến nghị với Chính phủ công bố mức lương tối thiểu vùng hàng năm.
Sau 8 năm hoạt động, qua tổng kết, đánh giá hoạt động của Hội đồng Tiền lương quốc gia cho thấy: (i) Việc thành lập Hội đồng Tiền lương quốc gia là chủ trương đúng đắn của Nhà nước, phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; (ii) Thông qua Hội đồng, cơ chế xác lập tiền lương tối thiểu ở Việt Nam đã có sự thay đổi tích cực, từ chỗ do Nhà nước xác định, công bố (Bộ luật Lao động năm 1994) sang cơ chế xác lập dựa trên kết quả thương lượng, thỏa thuận cấp quốc gia của đối tác 3 bên trong quan hệ lao động theo nguyên tắc thị trường và các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); (iii) Hằng năm, Hội đồng đã đưa ra các khuyến nghị để Chính phủ quy định mức lương tối thiểu phù hợp với điều kiện thực tế, góp phần cải thiện đời sống người lao động, không gây tác động tiêu cực cho doanh nghiệp và nền kinh tế; (iv) Một số nội dung quy định về Hội đồng Tiền lương quốc gia trong Nghị định đã được luật hóa trong Bộ luật Lao động 2019.
Sau 8 năm thành lập và hoạt động, đến nay Hội đồng đã 8 lần khuyến nghị với Chính phủ phương án tiền lương tối thiểu vùng; Chính phủ cơ bản đều thống nhất với phương án Hội đồng đã khuyến nghị (áp dụng cho năm 2014 tăng bình quân 15,2%, năm 2015 tăng bình quân 14,2%; năm 2016 tăng bình quân 12,4%; năm 2017 tăng bình quân 7,3%; năm 2018 tăng bình quân 6,5%; năm 2019 tăng bình quân 5,3%; năm 2020 tăng bình quân 5,5%).
Bên cạnh kết quả đạt được, Hội đồng Tiền lương quốc gia cũng đang có những hạn chế, đó là: (i) Cơ cấu thành viên hiện nay mới chỉ có thành viên đại diện cho tổ chức công đoàn, tổ chức đại diện người sử dụng lao động và nhà nước (Bộ LĐ-TB&XH), chưa có sự tham gia của các chuyên gia độc lập; (ii) Chức năng của Hội đồng mới tập trung khuyến nghị về lương tối thiểu vùng, chưa thể hiện đầy đủ theo tên gọi và mục đích hình thành Hội đồng Tiền lương quốc gia; (iii) Các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng cũng hạn chế (không có con dấu riêng mà sử dụng con dấu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nên chưa thể hiện rõ tính đại diện cho 3 bên trong quan hệ lao động; kinh phí ngân sách bố trí hàng năm ít), chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi để Hội đồng thực hiện nhiệm vụ.
Tại dự thảo, Bộ LĐ-TB&XH đề xuất quy định về Hội đồng Tiền lương quốc gia với mô hình cơ bản như hiện nay và bổ sung, điều chỉnh một số nội dung để triển khai những vấn đề mới theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, như mở rộng chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng, bổ sung thành viên là chuyên gia độc lập, cơ chế bảo đảm hoạt động của Hội đồng, với 4 nội dung chủ yếu sau:
1. Về chức năng, Hội đồng Tiền lương quốc gia thực hiện chức năng tư vấn cho Chính phủ về mức lương tối thiểu và chính sách tiền lương đối với người lao động theo quy định của Bộ luật Lao động.
2. Về nhiệm vụ, Hội đồng thực hiện các nghiên cứu, khảo sát, thu thập thông tin, phân tích, đánh giá và xây dựng các báo cáo nghiên cứu về các yếu tố xác định mức lương tối thiểu theo quy định của Bộ luật Lao động; xây dựng phương án mức lương tối thiểu theo tháng, mức lương tối thiểu theo giờ và việc phân vùng địa bàn áp dụng; tổ chức thương lượng trên cơ sở đó khuyến nghị với Chính phủ việc điều chỉnh mức lương tối thiểu theo tháng và theo giờ hàng năm, từng thời kỳ; tư vấn, khuyến nghị về chính sách tiền lương áp dụng chung đối với người lao động theo quy định của Bộ luật Lao động.
3. Về cơ cấu tổ chức của Hội đồng, số lượng thành viên tối đa 18 người, trong đó giữ nguyên cơ cấu hiện nay 15 thành viên, gồm đại diện Bộ LĐ-TB&XH (5 thành viên), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (5 thành viên), tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở trung ương (5 thành viên), sau 8 năm hoạt động cho thấy cơ cấu thành viên hiện nay phù hợp với Việt Nam và bổ sung tối đa 3 thành viên là chuyên gia độc lập. Các chuyên gia độc lập này là các nhà khoa học có uy tín, đang công tác nghiên cứu, giảng dạy các nội dung thuộc lĩnh vực lao động, tiền lương, kinh tế - xã hội tại viện nghiên cứu, trường đại học (không bao gồm viện nghiên cứu, trường đại học thuộc hệ thống tổ chức của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và tổ chức của người sử dụng lao động) và do Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH lựa chọn, bổ nhiệm sau khi tham khảo ý kiến của Hội đồng Tiền lương quốc gia.
Về cơ cấu tổ chức của Hội đồng, giữ như hiện nay gồm Chủ tịch, 3 Phó Chủ tịch và các Ủy viên; trong đó Chủ tịch là Lãnh đạo Bộ LĐ-TB&XH để điều hành hoạt động chung của Hội đồng; các Phó Chủ tịch có vai trò điều hành các hoạt động nội bộ của các Ủy viên mỗi bên để độc lập nghiên cứu, điều tra, khảo sát phục vụ xây dựng phương án tiền lương tối thiểu vùng hàng năm.
4. Về hoạt động của Hội đồng, quy định nguyên tắc làm việc theo chế độ tập thể, thảo luận dân chủ, công khai, biểu quyết và kết luận theo đa số, đề cao vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng; Hội đồng có con dấu riêng để bảo đảm tính đại diện 3 bên, độc lập với cơ quan nhà nước trong tư vấn, khuyến nghị; quy định cơ chế tài chính theo đơn vị thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ để thuận lợi cho thực hiện nhiệm vụ (khác với các Hội đồng khác, hằng năm Hội đồng tiền lương phải thực hiện rất nhiều công việc từ khảo sát, nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình lao động, tiền lương, đời sống người lao động, sản xuất, kinh doanh, kinh tế xã hội, dự báo tác động để xây dựng, hội thảo, tổ chức các phiên họp thương lượng, khuyến nghị với Chính phủ phương án lương tối thiểu và chính sách tiền lương).