Quay lại Dân trí
Dân Sinh
  1. Nhân lực

Lưu Hữu Phước - Người viết sử bằng âm nhạc

LĐXH
LĐXH

(LĐXH) - Được mệnh danh là người tái hiện lịch sử bằng âm nhạc, cố Giáo sư, Viện sĩ, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước (1921 - 1989) là một trong những tên tuổi để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng.

Dấu ấn của ông được thể hiện qua những ca khúc được sáng tác từ cảm hứng về những sự kiện lịch sử trọng đại, tự hào của dân tộc như: “Non sông gấm vóc”, “Bạch Đằng giang”, “Ải Chi Lăng”, “Hát Giang trường hận” (sau đổi thành Hồn tử sĩ); “Hờn sông Gianh”, “Người xưa đâu tá”, “Hội nghị Diên Hồng”…

Lấy âm nhạc làm vũ khí đấu tranh  

Lưu Hữu Phước - Người viết sử bằng âm nhạc - 1
Nhóm Huỳnh - Mai - Lưu (Từ trái qua: Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ). 

Thuở nhỏ, nhận thấy Lưu Hữu Phước đam mê và có năng khiếu âm nhạc, cha ông đã cho theo học đàn kìm (nhạc cụ quen thuộc trong dàn nhạc đờn ca tài tử ở Nam bộ). Riêng phần lý thuyết âm nhạc, ông đã tự học, đồng thời chơi một số nhạc cụ khác như đàn mandolin, guitar cũng rất thuần thục.

Sinh ra và lớn lên trong gia đình có điều kiện về kinh tế thời đó, sau khi học hết bậc tiểu học ở Cần Thơ, ông lên Sài Gòn học tiếp trung học ở Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký (thường gọi là Pétrus Ký).

Chính tại ngôi trường danh tiếng này, ông đã kết thân với những người bạn cùng chí hướng là Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ và lập thành nhóm bộ Huỳnh - Mai - Lưu (còn gọi là Hoàng - Mai - Lưu). 

Nhóm Huỳnh - Mai - Lưu đã tham gia thành lập Câu lạc bộ Học sinh (Scholar Clup) tại Trường Pétrus Ký hội tụ đông đảo học sinh, sinh viên yêu nước, đồng chí hướng, có tinh thần dân tộc ở Sài Gòn thời ấy. Để có bài hát chính thức của Scholar Clup, cuối năm 1939, khi mới 18 tuổi, ông đã sáng tác ca khúc “Thanh niên hành khúc” hay còn có tên gọi khác là “Tiếng gọi thanh niên”, rồi cùng với Mai Văn Bộ đặt lời bằng tiếng Pháp với tựa đề “La Marche des Étudiants” (Sinh viên hành khúc).

Bằng giai điệu tiết tấu của thể loại âm nhạc hành khúc mạnh mẽ hào hùng, ca từ tràn đầy khí phách và tinh thần yêu nước, thúc giục tuổi trẻ “đứng lên đáp lời sông núi”, ngay sau khi ra đời, ca khúc đã được giới thanh niên, học sinh, sinh viên đón nhận nồng nhiệt và phổ biến rộng rãi khắp các đô thị thời ấy. 

Được coi là “linh hồn” của nhóm Huỳnh - Mai - Lưu, ông đã tích cực sáng tác để biến âm nhạc thành vũ khí sắc bén trong công cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của đất nước, dân tộc. Trong giai đoạn 1940 - 1944, sau khi đỗ tú tài tại Trường Pétrus Ký, ông ra Hà Nội học tại Trường Y - Dược thuộc Viện Đại học Đông Dương.

Tuy học ngành y - dược nhưng ông rất đam mê âm nhạc và tiếp tục sáng tác ca khúc thể hiện tinh thần yêu nước, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh chính trị của học sinh, sinh viên. Đây là thời kỳ Việt Nam chịu ảnh hưởng của phong trào Mặt trận Bình dân ở Pháp nên phong trào đấu tranh rất mạnh mẽ ở khắp đô thị cả nước, nhất là Hà Nội, Sài Gòn.

Ông không chỉ tích cực tham gia mà còn trở thành một trong những thủ lĩnh đầy nhiệt huyết của phong trào và có nhiều cơ hội tiếp xúc với một số thành viên của lực lượng Việt Minh. Đây chính là cơ duyên đưa ông đến với cách mạnh và lực lượng Việt Minh ngay từ thời sinh viên.

Những năm tháng ấy, trong những đợt sinh viên tổ chức các hoạt động về nguồn, ông đã trào dâng cảm xúc sáng tác hàng loạt ca khúc có nội dung tái hiện các sự kiện lịch sử toát lên hào khí dân tộc, ngợi ca non sông gấm vóc như: “Non sông gấm vóc”, “Bạch Đằng Giang”; “Ải Chi Lăng”, “Hờn sông Gianh”, “Người xưa đâu tá” và “Hội nghị Diên Hồng”… 

Năm 1942, trong một lần đi cắm trại do Tổng hội sinh viên Đông Dương tổ chức tại Mê Linh, với sự liên tưởng và khơi nguồn cảm xúc về lịch sử cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, ông viết ca khúc “Hát Giang trường hận” với giai điệu âm nhạc trầm buồn, bi tráng gợi nhớ đến công ơn của Hai Bà Trưng “vì non sông tử tiết vong thân” chống ách đô hộ của nhà Hán. “Đêm khuya âm u/ Ai khóc than trong gió đàn/ Sóng cuốn Trưng Nữ Vương gọi muôn ngàn bên nước tràn/ Hồn ai thổn thức bên sông”.

Đến năm 1946, “Hát Giang trường hận” được sửa thành “Hồn tử sĩ” và trở thành bản nhạc được sử dụng chính trong các buổi tang lễ tiễn đưa các liệt sĩ về nơi an nghỉ cuối cùng. 

Đặc biệt với ca khúc “Lên đàng” (Lên đường) sáng tác vào năm 1944, âm nhạc của ông đã thực trở thành thứ vũ khí có sức công phá lớn, góp phần cổ vũ hàng ngàn lượt thanh niên, học sinh, sinh viên thời ấy sẵn sàng xếp bút nghiên lên đường tham gia cách mạng đấu tranh chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc.

Đây là một trong những bài hành khúc rất tiêu biểu của cá tính, phong cách sáng tác âm nhạc của ông. 

Mãi vang lên những bản hùng ca

Lưu Hữu Phước - Người viết sử bằng âm nhạc - 2
Chân dung cố Giáo sư, Viện sĩ, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước.

Năm 1944, ông được Mặt trận Việt Minh giao nhiệm vụ trở về Nam tham gia vận động cách mạng. Khi bị bắt giam trong tù, ông vẫn sáng tác “Khúc ca khải hoàn” với niềm tin vào thắng lợi của cách mạng. Thời điểm này nổ ra phong trào đông đảo sinh viên ba miền Bắc, Trung, Nam xếp bút nghiên bỏ học để tham gia hoạt động cách mạng. 

Trong khí thế sục sôi tinh thần cách mạng của giới thanh niên, học sinh, sinh viên Hà Nội, nhóm Huỳnh - Mai - Lưu và Đặng Ngọc Tốt đã cùng nhau sáng tác và cho ra đời 3 bài hát “Xếp bút nghiên”, “Mau về Nam” (hành khúc Nam tiến), “Gieo ánh sáng” nhằm kêu gọi sinh viên từ bỏ việc học giỏi đỗ cao để làm quan cho Pháp, sẵn sàng xếp bút nghiên lên đường tranh đấu.

Phong trào này đã góp phần khơi gợi mạnh mẽ lòng yêu nước của thanh niên, học sinh, sinh viên trước và trong Cách mạng tháng Tám 1945.

Sau khi hoàn thành 3 ca khúc, ông và Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ đã rời giảng đường đại học trở về Nam bộ tham gia cách mạng. Nhóm đã chứng kiến những bài hát của mình vang lên cổ vũ khích lệ hàng chục vạn người tham gia khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 lịch sử ở Sài Gòn.

Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân ở Sài Gòn ngày 25/8/1945 nhưng chưa đầy một tháng sau - rạng sáng 23/9/1945, thực dân Pháp núp bóng quân đội Anh tước vũ khí của quân đội Nhật ở Nam bộ, đánh chiếm Sài Gòn và vùng phụ cận, âm mưu trở lại xâm lược nước ta lần nữa.

Cuộc kháng chiến ở Nam bộ bùng nổ, tháng 12/1945, Ủy ban kháng chiến Nam bộ được thành lập, ông được cử làm Tổng Thư ký Ủy ban, phụ trách việc di dời trụ sở Ủy ban ra miền Trung. Thời gian này ông tích cực tham gia công tác tuyên truyền và được giao giữ chức vụ Giám đốc Phòng xuất bản Nam bộ.

Đến 6/1946, ông được điều động ra Hà Nội nhận nhiệm vụ thành lập Trung ương Nhạc viện (tháng 9/1946), rồi tản cư lên Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Trong suốt 9 năm trường kỳ kháng chiến hy sinh gian khổ ấy, những bản hùng ca của ông tiếp tục truyền lửa cho nhiều thế hệ, thúc giục toàn dân hăng say chiến đấu và giành chiến thắng. 

Sau Hiệp định Geneve 1954, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, ngoài việc sáng tác, ông tham gia công tác quản lý và giữ nhiều chức vụ như: Trưởng ban Nghiên cứu Nhạc - Vũ thuộc Vụ Nghệ thuật (Bộ Văn hóa), rồi Vụ trưởng Vụ Âm nhạc và Múa; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam...

Tháng 2/1965, ông được cử vào Nam làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng, sau đó là Bộ trưởng Bộ Thông tin - Văn hóa của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sống ở chiến khu, ông vừa làm công tác quản lý, vừa tiếp tục sáng tác tuyên truyền cổ vũ toàn quân, toàn dân với hàng loạt ca khúc có sức lay động lòng người mạnh mẽ. 

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với các bút danh Huỳnh Minh Siêng, Lưu Nguyễn, Long Hưng ông đã cho ra đời những bản chính ca, hùng ca và hành khúc với tiết tấu dồn dập, khẩn trương và ca từ như lời hiệu triệu, kêu gọi toàn quân, toàn dân chớp thời cơ hành động “ôm súng xông tới” diệt thù giải phóng quê hương miền Nam đang “rên xiết đêm ngày”.

Đó là những bản hành khúc có sức lan tỏa sâu rộng khắp miền Nam và cả nước như: “Giờ hành động” (1962), “Hành khúc giải phóng” (1962), “Bài ca giải phóng quân” (1963). Nổi bật nhất là bản hùng ca “Giải phóng miền Nam” vang lên như một lời hiệu triệu của Tổ quốc đối với mỗi người dân miền Nam anh hùng hãy vùng lên chiến đấu và trở thành bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Khi nghe ca khúc “Tiến về Sài Gòn”, cho tới giờ nhiều người nghĩ ông sáng tác trong dịp tổng tiến công mùa xuân 1975 nhưng thực tế được ông sáng tác từ năm 1966, để cổ vũ cho cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Ông đã viết “Tiến về Sài Gòn” với tất cả tâm huyết, cảm xúc mãnh liệt và niềm tin vào ngày chiến thắng của đoàn quân giải phóng.

Đã 58 năm trôi qua, “Tiến về Sài Gòn” vẫn mãi vang lên, hòa mình vào dòng chảy của những ca khúc cách mạng hùng tráng trong nền âm nhạc Việt Nam. 

Cố nhạc sĩ Lưu Hữu Phước (xã Trường Thành, huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, nay là quận Ô Môn,  TP Cần Thơ) đã có những đóng góp giá trị lớn vào nền âm nhạc hiện  đại Việt Nam.

Sau 1975, ông được phong hàm Giáo sư và Viện sĩ  thông tấn của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức và Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt đầu tiên (1996). 

 

Đình Định

Báo Lao động và Xã hội số Kỷ niệm 79 năm Quốc khánh 2/9, Ngày truyền thống ngành LĐ-TB&XH 28/8

Tin liên quan
Trung Quốc: Làn sóng săn lùng nhân tài AI

Trung Quốc: Làn sóng săn lùng nhân tài AI

(LĐXH) - Trung Quốc đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân tài trong bối cảnh ngành trí tuệ nhân tạo (AI) tại quốc gia này đang có dấu hiệu phát triển...