Nghịch lý học phổ thông thì khó, vào đại học thì dễ
Ở nhiều quốc gia tiên tiến, ở bậc phổ thông, học sinh vừa học, vừa chơi, tăng cường trải nghiệm và kỹ năng sống, nhưng lên đại học sẽ học hành, thi cử khó với những đòi hỏi hàm lượng trí tuệ cao. Trong khi đó, ở Việt Nam, ngay từ bậc Mầm non, không ít học sinh 5 tuổi đã phải còng lưng luyện chữ, tập tính nhẩm tại các lớp tiền tiểu học để chuẩn bị bước vào lớp 1.
Mặc dù có quy định không giao bài tập về nhà cho học sinh tiểu học, nhưng thực tế hầu như giáo viên nào cũng giao bài tập về nhà cho học sinh, nhiều em phải làm bài tập đến 9-10h tối, thời gian vui chơi hầu như không có.

Với học sinh bậc THCS và THPT thì ngoài việc học ở trường, nhiều em còn phải học thêm ở các trung tâm, nhà thầy cô hay học gia sư với lịch kín tuần. Nhưng vào đại học ở Việt Nam thì càng ngày càng dễ với vô số phương thức xét tuyển; thậm chí, nhiều người cho rằng, vào đại học bây giờ quá dễ dàng.
Chỉ những trường đại học top đầu vẫn cạnh tranh khốc liệt, còn các trường top cuối điểm xét tuyển rất thấp, có ngành lấy điểm chuẩn tổng 3 môn chỉ khoảng trên 10 điểm nên gần như học sinh nào cũng có thể đỗ đại học.
Trước đây, với thế hệ 7X, 8X thì hai kỳ thi tốt nghiệp THPT và đại học là tách bạch. Thi vào trường đại học nào làm đề riêng của trường đó, mỗi thí sinh chỉ có thể thi 3 trường. Sau đó, để đỡ tốn kém chi phí và công đi lại, việc thi tuyển, xét tuyển đại học sau đã được cải tổ với nhiều đổi mới.
Nhưng việc học sinh quá dễ dàng trúng tuyển đại học như hiện nay lại đặt ra bài toán về chất lượng đào tạo và cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp. Hơn nữa, trong quá trình học, không ít trường buông lỏng quản lý sinh viên, không siết chặt việc coi thi, chấm thi, không sát sao kiểm tra việc sinh viên tự học, tự nghiên cứu khiến cho nhiều em yếu kém, lười học vẫn được cấp bằng tốt nghiệp.
Vì sao vào đại học càng dễ thì tìm việc làm càng khó?
Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học thất nghiệp tại Việt Nam đang có xu hướng giảm dần qua các năm nhưng vẫn còn khá cao. Trên thực tế, các con số thống kê đôi khi không phản ảnh được đầy đủ bức tranh việc làm của các cử nhân đại học. Nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp vẫn tìm được việc làm nhưng làm trái ngành, làm thời vụ, thu nhập chưa tương xứng với trình độ học vấn và chi phí đã bỏ ra để học.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của các cử nhân mới tốt nghiệp đại học như: Chất lượng đào tạo không đồng đều. Việc mở rộng ngành học, trường đại học mới ồ ạt dẫn tới một số trường không đáp ứng được tiêu chuẩn về chất lượng giảng dạy và cơ sở vật chất; sinh viên tốt nghiệp thiếu kỹ năng và kiến thức cần thiết để cạnh tranh trong thị trường lao động.
Đặc biệt là sinh viên mới ra trường thiếu các kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm, quản lý thời gian nên gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm.
Nhiều trường đại học không định hướng nghề nghiệp kỹ cho sinh viên trước khi tốt nghiệp, vì vậy nhiều em lúng túng, không biết mình thích làm gì và có thể làm gì, điều này ảnh hưởng lớn đến khả năng tìm kiếm việc làm.
Mặt khác, nhiều sinh viên ra trường thiếu kinh nghiệm làm việc thực tế nên gặp khó khăn khi ứng tuyển vào các vị trí yêu cầu kinh nghiệm.
Số lượng sinh viên tốt nghiệp ngày càng tăng, trong khi số vị trí việc làm mới tạo ra hàng năm thường thấp hơn số sinh viên tốt nghiệp, dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt.

Làm gì để tránh nguy cơ thất nghiệp?
Học đại học không phải là con đường duy nhất dẫn tới thành công. Nếu cha mẹ cảm thấy việc học đại học quá sức trẻ thì không nhất thiết phải ép con học đại học. Thay vào đó, trẻ có thể chuyển hướng học nghề. Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều sinh viên học nghề thậm chí còn chưa tốt nghiệp đã được các doanh nghiệp tiếp nhận.
Không phải tới bậc đại học, trẻ mới cần được định hướng nghề nghiệp mà ngay từ bậc THCS, THPT, gia đình và nhà trường cần hướng nghiệp để các con xác định được ngành nghề phù hợp, chuẩn bị hành trang bước vào tương lai.
Bản thân sinh viên, ngay từ lúc còn ngồi trên ghế giảng đường, các em nên tạo cơ hội cho mình được trải nghiệm thực tế tại các cơ quan, doanh nghiệp. Đó có thể là các kỳ kiến tập, thực tập hoặc học việc, làm thêm bán thời gian...
Điều này không chỉ giúp các em tích lũy kinh nghiệm mà còn “làm đẹp” hồ sơ xin việc. Và một việc các em cần luôn luôn trau dồi đó là kỹ năng tự học. Giáo dục nhà trường chỉ là một phần, điều quan trọng là người học phải không ngừng trau dồi bản thân và học hỏi từ những người xung quanh, tiếp cận các kiến thức khoa học mới, cũng như biết cách quản lý thời gian, đây là điểm mà rất nhiều lao động Việt Nam yếu và thiếu.
Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý II/2024 là 2,29%, trong đó khu vực thành thị là 2,71%; nông thôn là 2,01%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý II/2024 là 8,01%, cao gấp 3,5 lần tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động, trong đó, khu vực thành thị là 10,19%; nông thôn là 6,86%. Trong quý II/2024, cả nước có khoảng 1,3 triệu thanh niên (từ 15-24 tuổi) không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo chiếm 10,2%. |
Thanh Huyền
Ấn phẩm Vì trẻ em số 15







