Theo TS, BS Đỗ Minh Loan, Trưởng khoa Sức khỏe vị thành niên (Bệnh viện Nhi trung ương), giáo dục giới tính sẽ giúp con trẻ hiểu được những đặc điểm của mỗi giới khác nhau thế nào.
Nếu trẻ được giáo dục giới tính ngay từ khi còn nhỏ với các phương pháp phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp nâng cao nhận thức về việc bảo vệ bản thân, tránh nguy cơ bị xâm hại tình dục, giảm tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục.

Từ 1 đến 3 tuổi là giai đoạn trẻ bắt đầu phát triển ngôn ngữ. Đến cuối tuổi thứ 3, trẻ cơ bản đã làm chủ được ngôn ngữ. Việc giáo dục giới tính trong giai đoạn này là dạy trẻ biết tên gọi của các bộ phận trong cơ thể như mũi, môi, tai, đầu... và các bộ phận ở những vị trí nhạy cảm như mông, ngực…
Đồng thời, cha mẹ cần dạy cho trẻ biết được đâu là bộ phận mang tính riêng tư, kín đáo của mỗi người, không được phô bày ra ngoài và người khác không được phép sờ vào.
Từ 3 đến 6 tuổi, trẻ bắt đầu tò mò khám phá thế giới xung quanh, ngôn ngữ đã phát triển và bổ sung nhiều vốn từ, đồng thời có nhiều hoạt động tương tác với bên ngoài. Việc phân biệt giới tính được đặt lên mức độ mới: Bạn trai và bạn gái tuy khác nhau những vẫn sẽ có những điểm giống nhau.
Giáo dục giới tính ở lứa tuổi này nên được thông qua trò chơi đóng vai bố, mẹ, anh, chị, cô, chú… để hướng dẫn trẻ cách phân biệt vai vế, giới tính… Từ đó, trẻ có ý thức ban đầu về vai trò của mỗi giới, nam và nữ nên có những cách cư xử, cách giao tiếp ra sao, vai trò của người bố và người mẹ trong gia đình…
Khoảng 6 đến 11 tuổi, trẻ phát triển trí nhớ và tư duy rất nhanh. Trẻ bắt đầu có những tò mò về giới tính, như: Cấu tạo của trẻ nữ, trẻ nam như thế nào? Con người được sinh ra từ đâu và bằng cách nào?
Để giải đáp thắc mắc này của trẻ, cha mẹ có thể trả lời đơn giản như: “Để một em bé chào đời, nhất định cần có sự góp sức của cha (tinh trùng) và mẹ (trứng) để tạo ra “hạt mầm” là con.
“Hạt mầm” sẽ dần lớn lên trong bụng của mẹ. Khoảng 9 tháng 10 ngày là lúc “hạt mầm” đủ lớn và muốn ra ngoài, thế là con được sinh ra đời”; hoặc cung cấp thông tin về giới tính qua việc đưa kiến thức vào các môn học như: Sinh học, khoa học giáo dục hay các hoạt động ngoại khóa ở trường học.
Ở lứa tuổi vị thành niên (11 đến18 tuổi), sự phát triển nổi bật nhất của trẻ là dậy thì. Trẻ phát triển mạnh mẽ về tâm lý, sinh lý và các nhu cầu về tính dục. Trẻ bắt đầu mở rộng các mối quan hệ và có những cảm nhận về rung động, thích hay yêu mến ai đó. Trong giai đoạn này, việc giáo dục giới tính đặc biệt quan trọng và cần tập trung vào vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản.
PGS Trần Thành Nam (Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, ngày nay trẻ dậy thì sớm hơn. Khi bước vào tuổi dậy thì, các em sẽ có áp lực phải thể hiện sự trưởng thành của mình. Trong đó, quá trình tham gia vào các hoạt động tình dục chính là một cách thể hiện.
Trái lại, cha mẹ luôn nghĩ con còn bé nên thời điểm để nói với con về vấn đề này thường là quá muộn. Điều đó dẫn đến tình trạng trẻ không được trang bị đầy đủ kỹ năng, dễ gặp "tai nạn" mang thai ngoài ý muốn khi có những hành vi tình dục thiếu an toàn.
Trong khi đó, các thông tin về yêu đương về quan hệ tình dục xuất hiện nhan nhản trên internet. Nếu tiếp xúc với kênh thông tin này thì sẽ bị kích thích sự tò mò, dễ có những quan niệm về tình yêu thiếu chuẩn mực và dẫn đến quan hệ tình dục không an toàn.
“Cha mẹ không nên để mặc con tự tìm hiểu về giới tính, tình dục qua mạng xã hội, thậm chí là từ bạn bè vì có thể trẻ sẽ học được những kiến thức không đúng và có những hành vi sai lệch.
Thay vào đó, cha mẹ nên thường xuyên trao đổi, chia sẻ với con, dạy về những hành động nào được và không được phép để giúp trẻ có thể duy trì tình bạn trong sáng, hạn chế quan hệ tình dục quá sớm và không an toàn; đồng thời cung cấp cho trẻ các thông tin và kỹ năng phòng tránh việc mang thai ngoài ý muốn khi ở tuổi vị thành niên và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Việc giáo dục về sức khỏe sinh sản không chỉ là ngăn cấm mà chúng ta cần giải thích, giãi bày để các con hiểu bản chất thật sự của mối quan hệ tình cảm, qua đó giúp trẻ có thái độ và hành vi đúng, hiểu biết và trách nhiệm về quyết định của mình”, TS, BS Đỗ Minh Loan nhấn mạnh.
Vân Khánh
Báo Lao động Xã hội số 60