Đối mặt với nhiều khó khăn
Một trong những khó khăn lớn nhất đối với nữ lao động di cư là thiếu sự bảo vệ pháp lý và các quyền lợi cơ bản. Nhiều lao động nữ không có hợp đồng lao động, đồng nghĩa với việc họ không được hưởng các quyền lợi về an sinh xã hội như BHXH, BHYT hay nghỉ phép.
Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), lao động nữ di cư thường chịu sự phân biệt đối xử về mức lương và điều kiện làm việc so với lao động nam. Họ thường phải làm việc trong môi trường không an toàn, với mức lương thấp hơn và giờ làm việc dài hơn.

Bà Nguyễn Thị Lan, chuyên gia nghiên cứu về lao động tại Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội cho biết: “Phụ nữ di cư thường gặp phải những khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục cho con cái hay nhà ở. Điều này là do họ không có hộ khẩu tại nơi làm việc, trong khi nhiều quyền lợi chỉ áp dụng cho người có hộ khẩu thường trú”.
Không chỉ làm việc vất vả, đa số nữ lao động di cư thường phải thuê trọ trong những căn nhà tạm bợ với giá rẻ mạt vì mục đích lớn nhất của họ là gửi tiền về cho gia đình. Vì nhà trọ chỉ là nơi để ngủ sau một ngày lao động vất vả, nên tiền cho một tháng thuê trọ dao động từ 600.000 - 1,2 triệu đồng.
Theo bà Trần Thu Phương, Phó trưởng Ban Nữ công (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), một gia đình lao động nữ di cư phải chi gần 10 triệu đồng cho các khoản thuê nhà, tiền học cho con, tiền điện, nước, ăn uống... Trong đó, mức chi dành cho thuê nhà từ 600.000 - 1,2 triệu đồng.
Bên cạnh đó, phần đông lao động nữ phải chấp nhận cuộc sống xa con. Điều này gây thiệt thòi lớn cho những đứa trẻ khi thiếu sự chăm sóc, nuôi dạy trực tiếp của cha mẹ, có thể ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển về thể chất cũng như tâm lý của trẻ, đồng thời cũng ảnh hưởng đến tình cảm, tâm lý của bản thân người lao động khi phải xa con.
Những mong ước bình dị
Đa số nữ lao động di cư đều khát khao một cuộc sống ổn định, an toàn. “Là lao động từ quê ra tỉnh, tôi chỉ mong có một chỗ ở ổn định, nhà trọ hiện tại chật chội, ẩm thấp. Nếu có khu nhà ở xã hội giá rẻ dành cho người lao động như chúng tôi thuê, thì cuộc sống sẽ đỡ vất vả hơn.
Tôi rất muốn được học thêm nghề, như nghề làm tóc, để sau này không làm công nhân thì có nghề phụ làm thêm. Nhưng các khóa học đều tốn kém, tôi mong có lớp học nghề miễn phí cho lao động di cư như chúng tôi”, chị Ngân Thị Lâm, công nhân Công ty bao bì Hoa Việt, KCN Phú Minh chia sẻ.
Theo các chuyên gia, lao động nữ di cư đóng góp một phần không nhỏ vào nền kinh tế của các tỉnh, thành phố khi họ đến, nhưng họ lại chưa được đối xử công bằng và hưởng đầy đủ quyền lợi.
Thời gian qua, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là hội phụ nữ và công đoàn các cấp cùng các tổ chức phi chính phủ đã có những chương trình hỗ trợ cho lao động di cư.
Tuy nhiên, những nỗ lực này vẫn còn hạn chế. Các chương trình thường không đến được với tất cả người lao động, đặc biệt là những người làm việc tự do hoặc không có hợp đồng chính thức.
Để những phụ nữ di cư thực sự phát triển và có cuộc sống ổn định, đóng góp cho xã hội một cách bền vững cần có sự thay đổi từ cả chính sách và cách tiếp cận của xã hội đối với vấn đề này.
Các chính sách không chỉ tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi mà còn phải giúp họ hòa nhập cuộc sống đô thị, từ việc cung cấp chỗ ở, giáo dục cho con cái đến tiếp cận dịch vụ công cộng.
Theo PGS, TS Bùi Thị An, nguyên đại biểu Quốc hội khóa XIII, Chủ tịch Hội Nữ trí thức Hà Nội, để hỗ trợ lao động nữ di cư, các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội cần hỗ trợ đầu tiên là về điều kiện thuê nhà để họ được sống trong môi trường đảm bảo an toàn, đáp ứng được nhu cầu tối thiểu.
Đồng thời, vận động và hỗ trợ họ mua BHYT, BHXH để họ ổn định cuộc sống, yên tâm lập nghiệp và phòng ngừa rủi ro như ốm đau, tai nạn… Bên cạnh đó, cần có các chương trình đào tạo nghề, nâng cao kỹ năng cho lao động nữ nhằm giúp họ có thể cải thiện điều kiện sống và thoát cảnh lao động không ổn định.
Khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) cho thấy, có 30,2% trẻ là con công nhân từ 0 đến dưới 16 tuổi đang phải sống xa cha mẹ. Do tính chất công việc, nhiều công nhân phải gửi con về quê cho người thân chăm sóc. Sống xa vòng tay nuôi dưỡng của cha mẹ đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Thậm chí, một khảo sát mới đây của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tại các khu công nghiệp, khu chế xuất cho thấy, nhiều công nhân, lao động rơi vào cảnh 4 không, gồm: 60% công nhân, người lao động ở các khu công nghiệp không xem ti vi, không nghe đài; 85% không đọc sách báo; 80% không tập thể dục thể thao thường xuyên; 65% không tham gia các hoạt động văn nghệ quần chúng. |
Thùy Hương - Cù Hòa
Báo Lao động và Xã hội số 126