Về xuất khẩu, tháng 9, kim ngạch XK ước đạt 3,8 tỷ USD, tăng 3,8% so với tháng 8/2020 và là tháng đạt kim ngạch XK cao nhất trong 9 tháng qua. Trong đó, giá trị XK nhóm nông sản chính ước đạt trên 1,6 tỷ USD (giảm 0,1%), lâm sản chính trên 1,2 tỷ USD, tương đương, thủy sản đạt 820 triệu USD (tăng 0,6%) và chăn nuôi đạt 34 triệu USD (tăng 17,2%) ,…
Tính chung 9 tháng, kim ngạch XK nông lâm thủy sản ước đạt 30,05 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, nhóm nông sản chính ước đạt gần 13,7 tỷ USD, giảm 1,1%; chăn nuôi ước đạt 231 triệu USD, giảm 19,7%; thủy sản ước đạt trên 6,0 tỷ USD, giảm 3,0%; lâm sản chính đạt khoảng 9,1 tỷ USD, tăng 13,2%.
Chín tháng đầu năm, mặc dù còn nhiều các mặt hàng XK giảm nhưng gạo, rau, sắn, tôm, gỗ và sản phẩm gỗ, quế, mây tre vẫn duy trì giá trị xuất khẩu tăng so với cùng kỳ. Cụ thể: giá trị xuất khẩu gạo đạt 2,5 tỷ USD (tăng 12,0%) ; rau đạt 515 triệu USD (tăng 7,6%); sắn đạt 110 triệu USD (tăng 89,9%), xuất khẩu tôm thu về gần 2,75 tỷ USD (tăng 12,7%); quế đạt 168 triệu USD (tăng 30,8%); gỗ và sản phẩm gỗ đạt khoảng 8,5 tỷ USD (tăng 12,4%); mây, tre, cói thảm đạt 425 triệu USD (tăng 24,8%).
Hiện đã có 8 nhóm, mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD và 06 nhóm, mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD (cà phê 2,2 tỷ USD, gạo 2,5 tỷ USD, hạt điều đạt 2,3 tỷ USD, rau quả đạt 2,5 tỷ USD, tôm 2,75 tỷ USD, gỗ và sản phẩm gỗ đạt 8,5 tỷ USD).
Về thị trường xuất khẩu, tính chung 9 tháng, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường chiếm thị phần lớn nhất với kim ngạch XK đạt trên 7,5 tỷ USD, tăng 19,3% so với cùng kỳ và chiếm gần 25% thị phần; tiếp đến là Trung Quốc ước đạt 7,24 tỷ USD, giảm 7,7% so với cùng kỳ và chiếm 24,1% thị phần; thị trường ASEAN ước đạt 2,93 tỷ USD, tăng 4,6% và chiếm 9,75% thị phần; XK sang các nước EU đạt khoảng 2,83 tỷ USD, giảm 0,6% và chiếm 9,4% thị phần; XK sang Nhật Bản đạt 2,51 tỷ USD, tương đương cùng kỳ và chiếm gần 8,4% thị phần;
Cũng theo số liệu từ Bộ NN&PTNT, tính chung 9 tháng, kim ngạch NK các mặt hàng NLTS ước khoảng 22,8 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, giá trị NK các mặt hàng nông lâm thủy sản chính ước đạt 17,8 tỷ USD, giảm 3,5%.
Ngoại trừ các mặt hàng dầu mỡ động thực vật, lúa mì, ngô, đậu tương và chăn nuôi có giá trị NK tăng (lần lượt là 18,5%, 3,7%, 3,6%, 18,0% và 28,4%), các mặt hàng khác đều giảm so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, phân bón giảm 8,6% (phân URE giảm 78,5%), thuốc trừ sâu giảm 22,0%, bông giảm 14,7%, hạt điều giảm 20,6%, rau quả giảm 32,3%, gỗ và sản phẩm gỗ giảm 6,5%, thủy sản giảm 1,7%.
Tính đến thời điểm hiện nay, 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã phát triển được 1.630 chuỗi (tăng 116 chuỗi so với cùng kỳ năm 2019), 2.346 sản phẩm (giảm 35 sản phẩm so với cùng kỳ năm 2019) và 2.991 địa điểm bán sản phẩm đã kiểm soát theo chuỗi (giảm 276 địa điểm so với cùng kỳ năm 2019).