Cùng tham dự Hội nghị có: Thứ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội Lê Tấn Dũng; Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú; Tổng Giám đốc Ngân hàng chính sách xã hội Dương Quyết Thắng và đại diện các Bộ, ban, ngành, cơ quan liên quan, các thành viên Ban chỉ đạo, cùng đại biểu tại 63 điểm cầu trong toàn quốc.
Nghiên cứu kéo dài thời gian thụ hưởng chính sách tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ biểu dương và đánh giá cao những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua của hoạt động tín dụng chính sách xã hội. "Có thể nói Ngân hàng Chính sách xã hội và chính sách tín dụng là một trụ cột quan trọng của Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững. Nhờ trụ cột này, giai đoạn 2015 – 2018, số hộ nghèo giảm rất nhanh, góp phần đẩy lùi, ngăn chặn tín dụng đen, tạo nguồn lực cho các địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững gắn với các đề án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân", Phó Thủ tướng nói.
Phó Thủ tướng đề nghị các địa phương tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền với hoạt động tín dụng chính sách xã hội, coi đây là một trong những nhiệm vụ trong chương trình, kế hoạch, hoạt động thường xuyên của các cấp ủy, các ngành, địa phương; tổ chức huy động tốt các nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội, gắn phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững.
Phó Thủ tướng cho rằng, cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội trong việc thực hiện tín dụng chính sách xã hội, nâng cao hiệu quả giám sát của toàn dân với công tác này; tập trung huy động nguồn lực và hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm thực hiện có hiệu quả hơn tín dụng chính sách từ nay đến năm 2020 và giai đoạn 2021 – 2025. Trong đó, tập trung các nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước vào một đầu mối là Ngân hàng Chính sách xã hội, phân biệt rõ ràng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, các hoạt động cho vay theo chính sách tài khóa này đều phải được cấp bù lãi suất, cấp chi phí quản lý cho Ngân hàng Chính sách xã hội. Có cơ chế chính sách tiếp tục bố trí riêng danh mục vốn đầu tư trung hạn giai đoạn 2021 – 2025 cho Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Theo Phó Thủ tướng, cần ưu tiên cân đối nguồn vốn ngân sách nhà nước để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội và bảo đảm hoạt động ổn định của Ngân hàng Chính sách xã hội, tính tới việc sắp tới thực hiện Chương trình mục tiêu quốc phát triển bền vững kinh tế - xã hội các xã miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số khi được Quốc hội thông qua.
Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội chủ động tiếp thu các ý kiến đề xuất để hoàn thiện chính sách như nâng thêm mức cho vay, kéo dài thời gian cho vay đối với hộ mới thoát nghèo, tăng mức cho vay đối với hộ sản xuất và các chương trình nước sạch.
Hoan nghênh Thành phố Hồ Chí Minh có chủ trương hằng năm sẽ bổ sung thêm ít nhất 600 tỷ đồng cho vay các đối tượng chính sách, Phó Thủ tướng đề nghị HĐND, UBND các địa phương tiếp tục dành một phần nguồn vốn thích đáng từ ngân sách để bổ sung nguồn vốn cho vay các đối tượng chính sách xã hội trên địa bàn.
Phó Thủ tướng đề nghị, năm 2020 và giai đoạn 2021 – 2025, tăng trưởng tín dụng hàng năm của Ngân hàng Chính sách xã hội tối thiểu phải đạt 10%, phấn đấu ở mức 12%. Mặt trận Tổ quốc mở rộng cuộc vận động "Vì người nghèo" để huy động sự đóng góp của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cá nhân bổ sung nguồn vốn cho tín dụng chính sách xã hội.
Phó Thủ tướng cũng nhấn mạnh đến việc nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng quản trị các cấp, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Phó Thủ tướng lưu ý Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính không để nợ nghĩa vụ của Nhà nước đối với Ngân hàng Chính sách xã hội.
Ngân hàng Nhà nước, các Bộ, nghành nghiên cứu cho phép kéo dài thời gian hộ được thụ hưởng chính sách tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo kể từ khi ra khỏi danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo; nâng thời hạn cho vay tối đa của chương trình tín dụng hộ mới thoát nghèo để phù hợp với đối tượng đầu tư của người vay vốn. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo các địa phương thực hiện tốt công tác điều ra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hàng năm để làm căn cứ thực hiện các chính sách, chương trình giảm nghèo, trong đó có chính sách tín dụng ưu đãi. Đặc biệt, Phó Thủ tướng đề nghị cần làm tốt công tác tuyên truyền, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tầng lớp nhân dân; tạo động lực và khuyến khích người dân lao động sáng tạo, cần cù để giảm nghèo và vươn lên làm giàu.
Vốn chính sách giúp trên 1,4 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo
Tổng giám đốc Ngân hàng chính sách xã hội Dương Quyết Thắng cho biết: Sau gần 5 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tín dụng chính sách xã hội đã phát huy hiệu lực, hiệu quả trên phạm vi toàn quốc, có tác động tích cực đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới. Đến ngày 31/8/2019, tổng nguồn vốn đạt 207.708 tỷ đồng, tăng 63.052 tỷ đồng so với 31/12/2015.
Trong đó, Ngân sách nhà nước cấp vốn điều lệ và cấp vốn thực hiện các chương trình tín dụng đạt 35.581 tỷ đồng, chiếm 16,8% tổng nguồn vốn; Ngân hàng chính sách xã hội huy động trên thị trường, vay Ngân hàng Nhà nước, nhận tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng nhà nước và phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh đạt 147.389 tỷ đồng, chiếm 69,5% tổng nguồn vốn; nguồn vốn địa phương ủy thác cho vay đạt 14.516 tỷ đồng, chiếm 6,8% tổng nguồn vốn, tăng thêm 10.709 tỷ đồng so với trước khi thực hiện Chỉ thị số 40.
Về kết quả thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội giai đoạn 2016 – 2020, đến ngày 31/8/2019, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt 199.823 tỷ đồng, tăng 57.295 tỷ đồng so với 31/12/2015, tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân hàng năm đạt 9,7%, với gần 6,6 triệu khách hàng còn dư nợ. Trong đó, Chương trình tín dụng hộ nghèo đạt 35.888 tỷ đồng, chiếm 18% tổng dư nợ, với hơn 1,1 triệu hộ đang còn dư nợ; Chương trình tín dụng hộ cận nghèo đạt 31.572 tỷ đồng, chiếm 15,8% tổng dư nợ với gần 895 nghìn hộ còn dư nợ, tăng 4.091 tỷ đồng so với 31/12/2015; Chương trình tín dụng hộ mới thoát nghèo đạt 33.159 tỷ đồng, chiếm 16,6% tổng dư nợ với trên 1 triệu hộ còn dư nợ, tăng 29.655 tỷ đồng so với 31/12/2015; Chương trình tín dụng chính sách xã hội dành riêng cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số đạt 49.617 tỷ đồng, chiếm 24,8% tổng dư nợ của Ngân hàng chính sách xã hội, với trên 1,4 triệu khách hàng là hộ đồng bào dân tộc thiểu số đang thụ hưởng hầu hết các chương trình tín dụng tại Ngân hàng chính sách xã hội, dư nợ bình quân một hộ dân tộc thiểu số đạt 34 triệu đồng/ bình quân chung đang là 30,4 triệu đồng.
Trong giai đoạn từ 2016 đến 31/8/2019, đã có gần 8 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn chương trình tín dụng chính sách xã hội, với doanh số cho vay đạt 221.693 tỷ đồng; góp phần giúp trên 1,4 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho trên 775 nghìn lao động; gần 200 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng gần 4,9 triệu công trình nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn; trên 108 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động của tín dụng chính sách xã hội thời gian qua vẫn còn những khó khăn, thách thức. Đó là: Nguồn lực để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội còn hạn chế so với nhu cầu thực tế của người nghèo và các đối tượng chính sách. Chất lượng tín dụng chính sách chưa đồng đều, tại một số vùng, địa phương tỷ lệ nợ quá hạn còn cao. Đối tượng thụ hưởng một số chương trình tín dụng như cho vay học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, cho vay phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi mới chỉ giới hạn trong phạm vi nhất định, các hộ gia đình có mức sống trung bình chưa được tiếp cận.
Tại Hội nghị, các ý kiến phát biểu của các ngành, địa phương đã đi sâu phân tích kết quả đạt được, bài học kinh nghiệm về giảm nghèo bền vững, đồng thời đề nghị Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành nâng mức đầu tư hỗ trợ cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác đặc biệt là tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Mở rộng và tạo điều kiện để tăng cường sự tham gia của người dân về các hoạt động giảm nghèo từ đó xác định đối tượng thụ hưởng đến việc lập kế hoạch, triển khai thực hiện. Lồng ghép nguồn lực để triển khai thực hiện, kinh nghiệm đặc thù của từng địa phương, nhân rộng điển hình các thôn bản thực hiện tốt, đổi mới phương thức thực hiện cơ chế chính sách, hạn chế tối đa việc cho không, xây dựng chính sách cho vay có điều kiện…
Thiết kế Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025
Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Lê Tấn Dũng cho biết: Cùng với việc triển khai đồng bộ các chính sách, chương trình giảm nghèo, bình quân mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,55%; cơ sở hạ tầng trên địa bàn các huyện nghèo, xã nghèo được cải thiện rõ rệt, đời sống người nghèo được cải thiện, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản được nâng lên.
Để thực hiện tốt mục tiêu giảm nghèo, không chỉ hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo sự liên kết, thông thương hàng hóa, mà đòi hòi phải có có cơ chế để người nghèo tiếp cận được nguồn vốn, tổ chức phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế, tạo việc làm, xuất khẩu lao động, hỗ trợ chi phí học tập cho con em hộ nghèo, cải thiện nhà ở, môi trường và nước sinh hoạt…, chỉ thông qua tín dụng chính sách, mới thực sự giúp cho người nghèo cải thiện chất lượng cuộc sống, tiếp cận đầy đủ hơn với các dịch vụ xã hội cơ bản từ đó nâng cao thu nhập, thoát nghèo bền vững.
Theo thứ trưởng Lê Tấn Dũng, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 đã chuẩn bị kết thúc. Từ nay đến 2020, phải tập trung vào việc đề xuất, thiết kế Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cho giai đoạn 2021-2025. Đồng thời, xây dựng các tiêu chí để xác định đối tượng hộ nghèo tiếp cận đa chiều cho giai đoạn 2021- 2025 làm cơ sở thực hiện các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội, theo hướng hạn chế các chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện, có hoàn trả, hỗ trợ tạo điều kiện để thoát nghèo bền vững, trong đó tín dụng ưu đãi là chính sách mang tính nền tảng để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.